Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lời Tựa

07 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 10489)
Lời Tựa

CON ĐƯỜNG KIM CƯƠNG THỪA VỀ SỰ TỊNH HÓA

LAMA THUBTEN YESHE.
Bản dịch Việt : Kiến Không
Nhà Xuất Bản Thiện Tri Thức, 1999
blank
blank

LỜI TỰA

blankLama Thubten Yeshe (1935-1984) truyền pháp Heruka Vajrasattva lần đầu tiên cho khoảng hai mươi lăm người đệ tử phương Tây tại tu viện Kopan thuộc Nepal vào tháng 4 năm 1974.

Những chi tiết đáng chú ý về cuộc đời Lama Yeshe giờ đây có thể tìm thấy ở một số nơi, từ cuốn sách tuyệt vời của Vicki Mackenzie, Sự Tái Sanh của Hài đồng Lama, và phụ trương của Tạp chí Trí Huệ, cho đến sự giới thiệu, lời mở đầu, lời tựa của những tác phẩm xuất bản trước của Ngài : Năng lực của Trí huệGiới thiệu về Tantra. Adèle Hulse đang viết một tiểu sử chính thức cho nhà xuất bản Trí Huệ.

Nhưng có lẽ sự mô tả hùng biện nhất về những phẩm tính phi thường của Lama Yeshe là của Lama Thubten Zopa Rinpoche. Ngài là đệ tử chính và tâm đắc, trong quyển “Lòng từ ái của Đạo Sư” và trong bài điếu văn của Ngài Zopa đọc sau khi Lama Yeshe viên tịch năm 1984.

Lama Yeshe không chỉ là Vị Kim Cương Sư siêu tuyệt mà còn là người gợi ý ra xây dựng Hội Bảo Tồn Truyền Thống Đại Thừa (FPMT), một tổ chức thế giới của những trung tâm giáo lýthiền định Phật giáo cả nông thôn lẫn thành thị, những tu viện, những nơi nhập thất, những trung tâm chữa bệnh, và những nhà xuất bản trên khắp thế giới.

Lần đầu tiên tôi gặp Lama năm 1972, trong lúc tham dự khóa thiền định Kopan thứ ba, khóa đầu tiên của tôi. Việc giảng dạy được ngài Zopa đảm nhiệm, và hầu hết năm mươi học sinh đang theo học đều không biết có vị Lama khác ở Kopan. Có ai đó biết tôi là thầy thuốc và khoảng một tuần vào khóa học, tôi được mời đi thăm bệnh một Lama bị nhiễm trùng ở chân. Tôi được dẫn vòng ra sau một ngôi nhà cũ kỹ ở Kopan (bây giờ tiếc thay ngôi nhà đã hư hoại), ở đó có một vị tu sĩ Tây Tạng khiêm tốn với nụ cười rộng mở, hết lời cảm ơn dù tôi chưa làm gì. Nhưng ngài biết điều tôi không biết, rằng cuộc đời tôi đã bắt đầu thay đổi.

Khi mũi chích penicillin đầu tiên của tôi bắn vọt ra khắp phòng thay vì vào mông của Ngài, với một nụ cười, Ngài mời tôi trở lại : “Bạn thân mến, ngày mai cố gắng làm lại nhé.” Vì thế, tôi đến gặp Ngài mỗi ngày vào tuần sau, các bạn đạo của tôi bắt đầu loan truyền rằng nghề của tôi đã dở đi. Mười tám tháng sau, khóa học ở Kopan nổi tiếng đến bây giờ, tổ chức hai lần trong năm đã thu hút trên hai trăm người, đa số họ đều là người phương Tây trẻ đi du lịch Ấn Độ và Nepal. Hai mươi người chúng tôi được nguồn cảm hứng từ tấm gương vô song của Thầy chúng tôi, đã thọ giới làm Tăng, Ni. Vào mùa xuân năm 1974, đúng sau khóa học Kopan thứ sáu sau vài năm giảng dạy kinh điển về con đường tiệm đạo giác ngộ, Lama cảm thấy chúng tôi đã sẵn sàng cho Tantra. Ngài chọn sự thực hành tịnh hóa Heruka Vajrasattva và biên tập cho chúng tôi sadhana hay phương pháp thành tựu từ Tantra Chakrasamvara. Rồi Ngài ban cho năm buổi thuyết pháp bình giảng về sadhana và một bài giảng rộng về việc nhập thất thiền định như thế nào.

Quyển sách này bao gồm những bài giảng của Lama về thực hành Vajrasattva, những giáo huấn chi tiết về ẩn tu chủ yếu căn cứ trên sự giảng dạy lúc đầu, sáu bài giảng đặc biệt, phần lớn được đưa ra như sự mở đầu giới thiệu vào những buổi lễ quán đảnh Heruka Vajrasattva tại những trung tâm FPMT trên khắp thế giới, và hai bình giảng về Heruka Vajrasattva Tsok do chính Ngài biên soạn năm 1982. Trong phần phụ lục sẽ thấy sadhana và bản văn tsok bằng Tạng ngữ, phiên âm Tây Tạng và tiếng Anh để dễ tán tụng, và một phương pháp cúng cho những hồn linh địa phương, shi-dak torma. Nhưng Lama đã nhấn mạnh trong phần giới thiệu “để thực hành Heruka Vajrasattva bạn cần phải được làm lễ truyền pháp tantra yoga tối thượnggiáo huấn từ một vị Lama đầy đủ phẩm tính.”

Trong tính cách này, người đọc cũng cần chú ý rằng vì những giảng dạy trong sách này đến từ truyền thống khẩu truyền và nhắm vào những hành giả. Phạn ngữ và Tạng ngữ không được diễn đạt theo cách học giả mà là cách phát âm đúng và không có các dấu phụ.

Một điểm khác là trong những bài giảng, Lama Yeshe thường dùng từ “người phương Tây” để chỉ những thính giả vào lúc đó và không được loại bỏ. Tuy nhiên, những đọc giả không phải người phương Tây không nên cảm thấy bị bỏ rơi vì lòng bi và trí huệ của Lama chiếu sáng mười phương hoàn toàn không thiên vị.

Những bài viết của Lama năm 1974 đã được các Tăng Ni của Viện Đại Thừa Quốc Tế ghi âm và sao chép. Trước tiên cho công việc nhập thấttu hành Heruka Vajrasattva của họ vào mùa xuân 1974. Tôi đã dành thời gian hơn bốn tháng cho bản viết tay tại hang động Charok ở Lawudo, không cách xa Lawudo Gompa nơi ẩn tu của Lama Lawudo, là tiền kiếp của Lama Zopa Rinpoche. Đây là đỉnh cao của cuộc đời tôi, và tôi khuyến khích cho mọi người việc nhập thất theo những bình giảng của Lama. Và khoảng chừng mười huynh đệ kim cương lên xuống núi Lawudo ở quanh tôi, cùng làm một sự thực hành, là một cảm hứng lớn lao. Đó là thời gian tuyệt vời.

Cùng lúc ấy, khoảng chừng hai mươi thiền giả khai mạc nhóm nhập thất cùng với FPMT tại Kopan Gompa và một nhóm nhập thất ba tháng Heruka Vajrasattva vẫn được hướng dẫn hàng năm tại Trung tâm Nhập thất Tushita, phía trên Dharamsala Ấn Độ, và trung tâm Milarepa, Vermont USA và một số không thường xuyên thuộc các trung tâm khác.

Sau nhập thất, Lama làm việc với Thượng tọa Marcels Bertel và Thượng tọa Yeshe Kharda để bổ sung cho sadhana và bản bình giải. Trong hầu hết hai mươi năm, nhiều hành giả nhập thất Heruka Vajrasattva đã dựa vào ấn bản tuyệt vời của Marcels, và sau đó được in lại trong dạng chép tay nhiều lần bởi hai tu viện Kopan và Trí Huệ. Nó là căn bản của phần 1 và 2 trong quyển sách này.

Tôi bắt đầu làm việc về quyển “Con đường Tantra về sự tịnh hóa” sau khi Lama Yeshe cử tôi làm giám đốc nhà xuất bản Trí Huệ vào năm 1981. Sau những lời giảng dạy của Lama về Sáu Yoga của Naropa tại viện Lama Tsong Khapa vào đầu năm 1983, bảy người chúng tôi như được mô tả chi tiết bởi Jon Landaw trong quyển Giới thiệu về Tantra cùng nhau nhập thất biên soạn gần Cécina, Italy, làm việc với một số những lời giảng khác của các Lama để xuất bản. Trong nhiều chuyện khác, chúng tôi được biết Lama thật độc đáo trong việc sử dụng cực kỳ sáng tạo tiếng Anh như nhà nhập thất Robin Bretano tinh tế nhận xét, đến nỗi sự biên tập lời ngài cũng giống như chuyển dịch. Sự khó khăn do việc biên soạn những lời giảng của Lama là đáp ứng đúng với ý nghĩa của Ngài, văn phạm chính xác, âm điệu giống như Lama. Tất cả chúng tôi đã làm hết khả năng với những khó khăn này.

Tôi đọc bản phác thảo của bình giảng chính cho Lama nghe tại Trung tâm nhập thất Tushita vào tháng 4 năm 1983 và Ngài đã bổ sung nhiều sửa chữa. Tôi cất giữ những băng ghi âm về những buổi gặp đó cũng như ghi nhớ tất cả những lúc tôi ở với Lama. Tất cả mọi đề nghị của Ngài đều được kết hợp vào trong sách này.

Tôi biên soạn những lời dạy sau – những bài giảng Heruka Vajrasattva không thường xuyên của Lama và những bài viết của Ngài về cúng dường Heruka Vajrasattva Tsok năm 1993 tại Kinglake, Victoria, Australia.

Lama Yeshe là một người ủng hộ lớn lao cho việc thực hành tịnh hóa Heruka Vajrasattva. Một lần ngài bày tỏ hy vọng rằng tất cả đệ tử của Ngài dành thời gian nhập thất tối thiểu một lần trước khi chết. Sau khi Lama ra đi, theo như ước mong của Ngài, một nhóm đệ tử duy trì thời khóa suốt ngày đêm việc thực hành Heruka Vajrasattva trong vòng mười hai tháng tại tu viện Kopan, và những giai đoạn ngắn hơn tại Trung tâm nhập thất Osel Ling, Spai và Mahamudra (Đại Ấn) ở New Zealand.

Từ lòng đại bi của Lama và phước nguyện nhỏ bé của những đệ tử, vào ngày 12 tháng 2 năm 1985 Ngài đã trở lại với thế gian này như là Lama Tenzin Osel Rinpoche, và chúng tôi cầu nguyện Ngài một lần nữa giảng dạy việc thực hành Heruka Vajrasattva cho những đệ tử của Ngài và có lẽ, sẽ sửa chữa những lỗi lầm có trong sách này.

Lời cảm tạ

“Cảm ơn Rinpoche vì ngài đã thay đổi cuộc đời con.” Tôi đã nói với Lama Zopa Rinpoche vào lúc kết thúc khóa thiền định Kopan đầu tiên của tôi (Ngài chỉ cười). Tất cả chúng tôi trong FPMT tiếp tục cảm ơn Lama Zopa Rinpoche, ngọn hải đăng sáng rỡ của trí huệđại bi của chúng tôi và là một khuôn mẫu sống của những chứng ngộ. Khi Lama Yeshe viên tịch, Rinpoche duy trì liên tục việc phát triển của FPMT cho đến nay gồm hơn bảy mươi trung tâm ở mười bảy nước trên khắp thế giới, trong lúc tiếp tục dẫn dắt tâm linh những đệ tử ngày càng phát triển trên khắp thế giới bằng cả cách ứng xử vô song và những lời dạy thâm sâu của Ngài.

Dự án này và nhiều dự án khác đã và sẽ làm lợi lạc ngay cả trong tương lai xa hơn, từ công việc đặc biệt do Peter và Nicole Kedge và Thượng tọa Alisa Cameron trong xây dựngduy trì Tài Liệu Trí Huệ về những lời dạy của Lama Yeshe và Lama Zopa Rinpoche. Mỏ kim cương được vi tính hóa này sẽ tiếp tục sản sinh những lời dạy vì lợi ích chúng sanh trong một thời gian dài và với tư cách là nhà xuất bản những lời dạy này, chúng tôi đặc biệt biết ơn công việc thiện nguyện của họ.

Không cần phải liệt kê những gì họ đã giúp đỡ, vì họ đã làm quá nhiều. Tôi cũng cám ơn Ven. Geshe Lama Lhudrub Rigsel, Viện trưởng tu viện Kopan, Ven. Marcel Petels, Ven. Yeshe Khardo, Ven. Thubten Peno, Ven. Thubten Wongmo, Ursula Bernis, Ven. Ann McNeil, Ven. Max Matthew, Ven. Ronina Courtin, Jonathan Landaw, Ven. Roger Kunsang, Tim McNeil, Thubten Chošdak, Piero Cerri, những thành viên biên soạn nhập thất của Cecina Mare, Mary Moffat, Gookie Claire, Ritter, Beatrice Ribush mẹ tôi, Dorian và Alison Ribush, Wendy Cook, Ven. Geshe Tsulga (Tsultrim Chopel), David Molk, Ven. George Churinoff và Vincent Montenegro. Tôi cũng cám ơn FPMT dã cung cấp những lời dạy cho quyển sách này và những đệ tử thiện nguyện đã biên soạn lại những băng ghi âm. Chúng tôi đặc biệt cám ơn Peter Iseli đã trang hoàng bìa sách bằng bức họa Heruka Vajrasattva thật đẹp, chuyển từ mẫu vẽ đẹp đẽ của Lisa Sawlit.

 Nicolas Ribush


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19711)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23972)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41222)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19705)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 24004)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21749)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23315)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27510)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26578)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29322)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33207)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20209)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25788)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20921)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31331)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38584)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21450)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44269)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29835)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42226)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22145)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45775)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32126)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23963)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24397)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29285)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33929)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27689)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32145)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21070)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28858)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21592)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28078)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22083)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21445)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19506)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19477)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19841)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19262)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29201)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20627)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28306)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23652)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33200)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31849)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21382)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39636)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21565)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19385)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26409)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24837)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21760)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22398)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29143)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22561)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20473)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23532)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21242)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35334)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24548)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant