Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cư Sĩ Giới Pháp

06 Tháng Hai 201100:00(Xem: 22232)
Cư Sĩ Giới Pháp

THERAVĀDA - PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY
CƯ SĨ GIỚI PHÁP

Tỳ kheo Giác Giới (Bodhisīla Bhikkhu) biên soạn

PL. 2550 - TL. 2006

blank
MỤC LỤC

Chương I. Cư sĩ trong Phật giáo 
I.1. Tứ chúng Phật giáo 
I.2. Ý nghĩa U-bà-tắc và U-bà-di 
I.3. Những cư sĩ đầu tiên 

Cận sự nam đầu tiên qui y nhị bảo 
Cận sự nam đầu tiên qui y Tam bảo 
Cận sự nữ đầu tiên qui y Tam bảo 
I.4. Những cư sĩcông hạnh lớn 
Người cư sĩ xây dựng ngôi chùa đầu tiên
Người cư sĩ hộ độ Tam bảo tích cực 
Người cư sĩ hộ pháp quan trọng 
I.5. Quả vị tu hành của người cư sĩ 
I.6. Vai trò cư sĩ trong Phật giáo 
Vai trò hộ pháp 
Vai trò thừa tự pháp 
Chương II. Các pháp môn thuyết cho cư sĩ 
II.1. Mười hạng cư sĩ 
II.2. Năm pháp tánh người cận sự Tam bảo 
II.3. Mười đức lành của người Phật tử 
II.4. Bốn điều hạnh phúc của cư sĩ 
II.5. Bốn pháp tạo lợi ích hiện tại 
II.6. Bốn pháp đem lại lợi ích tương lai 
II.7. Bốn đức hạnh người tại gia 
II.8. Bốn pháp thịnh của gia đình 
II.9. Tám nguồn công đức sanh trời người 
II.10. Bốn sự chung sống gia đình 
II.11. Bốn nhân duyên tạo xứng đôi vợ chồng 
II.12. Năm nghề buôn bán trái đạo của cư sĩ 
II.13. Mười bất thiện nghiệp đạo 
II.14. Mười thiện nghiệp đạo 
II.15. Mười phước nghiệp sự, thập hạnh phúc 
II.16. Bảy pháp bất thối của người cư sĩ 
II.17. Bảy pháp suy thoái của người cư sĩ 
II.18. Tám lỗi lầm khiến tăng chúng úp bát 
II.19. Chín khuyết điểm - Tăng không đến nhà 
II.20. Sáu cửa suy vong cho người cư sĩ 
II.21. Bốn hạng ngụy bằng hữu 
II.22. Bốn hạng chân bằng hữu 
II.23. Các bổn phận giữa cha mẹ và con cái 
II.24. Các bổn phận giữa thầy và trò 
II.25. Các bổn phận giữa vợ và chồng 
II.26. Các bổn phận giữa bạn bè chủ khách 
II.27. Các bổn phận giữa người chủ và người làm 
II.28. Các bổn phận giữa cư sĩsa môn 
Chương III. Pháp môn tu tập của cư sĩ 
III.1. Qui y Tam bảo (Tisaraṇagamana) 
Ý nghĩathái độ qui y 
Yếu tố để thành tựu qui y 
Hình thức qui y 
Sự kiện bợn nhơ qui y 
Sự kiện đứt đoạn qui y 
Lợi ích của sự qui y 
III.2. Hạnh bố thí (dāna) 
Ý nghĩa pháp bố thí 
Điều kiện bố thí 
Hình thức bố thí 
Tâm lý bố thí 
Cung cách bố thí 
Quả phúc bố thí 
III.3. Hạnh trì giới (sīla) 
Ý nghĩa pháp trì giới 
Yếu tố trì giới 
Phân loại giới của người cư sĩ 
Chi của giới 
Pháp hỗ trợ cho giới 
Quả phúc của sự trì giới 
III.4. Hạnh tu tiến (bhāvanā) 
Ý nghĩa tu tiến 
Các hình thức tu tiến 
Pháp môn tu tiến cho người cư sĩ 
Điều kiện cho việc thực hành tu tiến 
Tu tiến với đề tài tùy niệm
Niệm Phật 
Niệm pháp 
Niệm Tăng 
Niệm giới 
Niệm thí 
Niệm thiên 
Niệm chết 
Niệm thân 
Niệm hơi thở 
Niệm tịch tịnh 
Tu tiến với đề tài bốn phạm trú
Tu tập tâm từ 
Tu tập tâm bi 
Tu tập tâm hỷ 
Tu tập tâm xả 
Tu tiến với đề tài quán tưởng 
Chương IV. Các nghi thức khóa lễ 
IV.1. Nghi thức tụng niệm 
IV.2. Nghi thức qui y 
IV.3. Nghi thức thọ ngũ giới 
IV.4. Nghi thức thọ bát quan trai giới 
IV.5. Nghi thức sám hối lệ kỳ mỗi nửa tháng 
IV.6. Nghi thức thính pháp 
IV.7. Nghi thức lễ cầu an 
IV.8. Nghi thức lễ cầu siêu 
IV.9. Nghi thức chúc thọ 
IV.10. Nghi thức cúng dường trai tăng 
IV.11. Nghi thức cúng dường bát hội 
IV.12. Nghi thức cúng dường y tắm mưa 
IV.13. Nghi thức cúng dường y kaṭhina 
IV.14. Nghi thức cúng dường y ngoại thời 
IV.15. Nghi thức cúng dường liêu cốc 
IV.16. Nghi thức cúng dường hội trường 
IV.17. Nghi thức cúng chánh điện 
IV.18. Nghi thức cúng dường thuốc trị bệnh 
IV.19. Nghi thức cúng dường tứ sự 
IV.20. Nghi thức ấn tống kinh sách 
IV.21. Nghi thức lễ an vị Phật 
IV.22. Nghi thức lễ nhiễu Phật 
Chương Phụ lục. Các vấn đề cần biết 
Vấn đề thờ cúng của người Phật tử 
Vấn đề lễ nghi của người Phật tử 
Vấn đề trang phục của người Phật tử 
Vấn đề ngôn ngữ của người Phật tử 
Vấn đề ẩm thực của người Phật tử 
Vấn đề hưởng thụ của người Phật tử 

LỜI GIỚI THIỆU

Cư Sĩ Giới Pháp là tập sách giáo khoa Phật học của người cư sĩ, giải thích rõ ràng về nghi lễ giới luậtpháp môn tu cho người Phật tử tại gia biết để thực hành cho đúng ý nghĩa cận sự nam, cận sự nữ (hay thiện nam, tín nữ) trong Phật giáo.

Mặc dù đời sống của người Phật tử đặt trên tinh thần tự giác, và giáo lý nhà Phật cũng không phải là giáo điều áp đặt, bắt buộc tín đồ phải chấp nhận, thế nhưng cũng có những điều nên làm và những điều nên tránh, được y cứ trên luật nhân quả nghiệp báoĐức Phật là đấng Đạo Sư sáng suốt thấy rõ chân lý, như các nhà khoa học phát minh những công thức điện học, quang học v.v...

Những giới pháp trong quyển Cư Sĩ Giới Pháp này như là những công thức hơn là giáo điều, để giúp người cư sĩ tại gia tu tập tiến hóa.

Tôi xin trân trọng giới thiệu đến chư Phật tử

Namo buddhāya. 
Tỳ Kheo Giác Chánh

 
 

LỜI NÓI ĐẦU

Người tu Phật có hai giới, giới xuất gia và giới tại gia. Giới tại gia là những nam, nữ cư sĩniềm tin Phật pháp, tạo thiện phước, cũng tu tập nhưng chưa rời bỏ gia đình

Người cư sĩ cũng đóng một vai trò quan trọng trong sự tồn vong của Phật giáo. Người cư sĩ cần phảikiến thức Phật pháp căn bản và biết về lễ nghi khi đến chùa làm phước hay ở nhà xử sự cho hợp lẽ đạo. Tất nhiên, có sự khác biệt giữa Phật tử Nam Tông, Phật tử Bắc TôngPhật tử Khất Sĩ. Ở đây quyển Cư Sĩ Giới Pháp này nhằm hướng dẫn cho cư sĩ Phật tử Nam Tông.

Đã từ lâu Phật tử Nam Tông vẫn mong mỏi có được một quyển kinh hướng dẫn luật nghipháp môn tu tập cho hàng cư sĩ.

Những quyển kinh Nhật Hành của cư sĩ hay quyển Kinh Tụng cho người tại gia đã được các vị Hòa Thượng như Ngài Hộ Tông, Ngài Pháp Tri biên soạn, cũng đáp ứng được nguyện vọng của Phật tử. Nhưng gọi là để nêu rõ nét về vai trò cư sĩ, nghi lễ thực hành, pháp môn tu tập dành riêng cho cư sĩ ... thì phải nói là chưa có quyển kinh Nhật Hành nào đáp ứng được.

Chúng tôi tài hèn sức mọn nhưng cũng cố gắng sưu tập và biên soạn quyển Cư Sĩ Giới Pháp này nhằm đáp ứng nguyện vọng của giới Phật tử cư sĩ. Thật ra, chúng tôi đã san định lại quyển Cư Sĩ Giới Pháp ấn hành năm Tân Dậu 1981, của Hội Học Tam Tạng do Thượng Tọa Giác Chánh chủ xướng; nay chúng tôi soạn lại theo sự yêu cầu và khích lệ của Thượng Tọa

Quyển Cư Sĩ Giới Pháp này, gồm có năm chương:

Chương I - Cư sĩ trong Phật giáo
Chương II - Các pháp môn dành cho cư sĩ 
Chương III - Pháp tu tập của cư sĩ 
Chương IV - Các nghi thức khóa lễ 
Chương Phụ lục - Các vấn đề cần biết

Chúng tôi soạn trích dẫn từ Kinh tạng, Luật tạng những điều Đức Phật thuyết liên quan đến đời sống người cư sĩ; riêng phần nghi lễ thì chúng tôi soạn dựa theo các kinh Nhật Hành đã có và cũng theo kinh nghiệm cá nhân qua quá trình hướng dẫn Phật tử từ trước đến nay.

Chúng tôi thật sự rất mạo muội khi làm công việc này. Nhưng với thiện chí phụng sự Phật pháp và giúp ích cho hàng Phật tử cư sĩ, chúng tôi mong được sự khích lệ của chư tăng, không phải là sự khiển trách; cũng mong giúp nhiều lợi ích cho tín đồ Phật giáo Nam Tông. Được vậy chúng tôi rất hoan hỷmãn nguyện.

Mong cho Phật pháp thịnh hành, tứ chúng đồng tu trong niềm an lạc.

Tỳ Kheo Giác Giới
Bodhisīlabhikkhu

Source: thuvienhoasen


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33528)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6643)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11438)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30488)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30520)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 8070)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12317)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12349)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11700)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12979)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34972)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9928)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52365)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10853)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10615)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10807)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10563)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13168)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16391)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21973)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9709)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7212)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10476)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12900)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12877)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16335)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16626)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13950)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16689)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12231)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13954)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14402)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9301)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11832)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11356)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16469)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14448)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16280)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12781)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12174)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11877)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15780)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11603)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14111)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12103)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12756)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 15075)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 12048)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13215)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14639)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20845)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13329)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 11044)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20813)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14474)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20519)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17761)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14123)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31965)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12101)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant