Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

An Trú Nơi Cô Tịch Là Thực Hành Của Một Bồ Tát

10 Tháng Hai 201100:00(Xem: 21745)
An Trú Nơi Cô Tịch Là Thực Hành Của Một Bồ Tát

AN TRÚ NƠI CÔ TỊCH
THỰC HÀNH CỦA MỘT BỒ TÁT

Dilgo Khyentse Rinpoche

Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt;
Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên;
Khi sự tỉnh giác trở nên trong trẻo hơn, niềm tin nơi Giáo Pháp tăng trưởng
An trú nơi cô tịch là thực hành của một Bồ Tát.

 

Khi bạn sống ở một nơi cô tịch, những cảm xúc tiêu cực của bạn dần dần giảm bớt, sự tự chủtiết chế của bạn tăng trưởng.

Chính Gyalse Thogme đã nói:

Ở một nơi cô tịch,
Không có kẻ thù để đánh bại,
Không có người thân để bảo vệ,
Không có người trên để tôn kính,
Không có thuộc hạ để chăm nom.
Vì thế, ngoài việc điều phục tâm mình,
Bạn sẽ phải làm điều gì khác ở đó, hỡi những người trì tụng Mani?1

Không bị quấy rầy bởi bằng hữu và người thân, không bị xáo trộn bởi nhu cầu kiếm sống bằng việc thương mại hay canh tác đất đai, bạn sẽ có thể nhất tâm tập trung vào thực hành tâm linh sâu xa và vì thế thực hiện sự tiến bộ tâm linh với thân, ngữ và tâm bạn. Tâm bạn sẽ trở nên tự chủ, tĩnh lặng, trong trẻo và tràn đầy sự xác quyết về chân lý của Giáo Pháp. Đây là lý do vì sao tất cả các bậc hiền triết trong quá khứ đã sống ở nơi hoang vu, trong chốn cô tịch, những vùng núi non có lợi cho thực hành tâm linh. Như Shantideva đã nói:

Và như thế, nhàm chán bởi dục vọng và khao khát của ta,
Giờ đây ta hãy vui thú trong chốn cô tịch,
Ở những nơi mọi tranh chấpxung đột ngừng dứt,
Sự thanh bình và tĩnh lặng của rừng xanh.2

Và cũng có nói:

Không bị dính mắc vào lợi dưỡng, hãy giống như gió, hãy giống như chim.
Sống nơi hoang dã, giống như một con thú nhút nhát.
Hành động đúng đắn, bạn sẽ an trụ thanh thản.

Nếu bạn muốn hoàn toàn tập trung vào Giáo Pháp thay vì bị đong đưa liên tục đó đây bởi những con sóng tham muốnganh ghét, hãy từ bỏ chúng và đi tới một nơi cô tịch. Hãy xoay tâm bạn vào trong, nhận biết những khiếm khuyết của bạn, thoát khỏi chúng, và phát triển mọi phẩm tính tốt lành cố hữu của bạn. Hãy hài lòng với lượng thực phẩm đủ để nuôi sống, quần áo đủ để che thân, và thực hành của bạn sẽ tiến bộ từng ngày, từng tháng và từng năm.

Một khi bạn thoát khỏi mọi điều kiện làm sao lãng, thực hành của bạn sẽ mang lại cho bạn sự tiến bộ dọc theo con đường. Đó là lý do vì sao mọi yogi (hành giả) trong quá khứ đã lang thang từ nơi cô tịch này tới một nơi cô tịch khác. Ngay cả một tháng duy nhất ở một nơi yên tĩnh và hiu quạnh cũng đủ để sự thù hận của bạn được thay thế bằng ước muốn làm lợi lạc chúng sinh, và sự bám luyến vào bằng hữu được thay thế bằng một cảm xúc mãnh liệt về sự vô thường và cái chết cận kề.

Như Đức Atisha đã nói: “Các sao lãng làm hại thực hành của bạn cho tới khi bạn đạt được sự kiên cố. Hãy sống trong cảnh cô tịch nơi rừng rậm và núi non. Thoát khỏi những hoạt động rối loạn, bạn sẽ có thể hoàn toàn hiến mình cho việc thực hành Giáo Pháp, và bạn sẽ không hối tiếc vào lúc chết.”

Và Drom Tönpa3 nói: “Thời đại suy đồi này không phải là lúc để một người bình thường giúp đỡ những người khác ở bên ngoài, nhưng đúng hơn đó là lúc để sống trong những nơi cô tịch và tu tập lòng từ và bi của Bồ đề tâm.”4

Sự mê lầm và những tập khí mạnh mẽ tới nỗi vào lúc đầu việc thực hành Pháp dường như rất khó khăn; nhưng những khó khăn này sẽ dần dần lắng dịu. Một khi bạn đã thấu hiểu điểm cốt yếu của các giáo lý, bạn sẽ không còn phải trải nghiệm sự gian khổ hay khó khăn với giáo lý. Những cố gắng của bạn sẽ mang lại cho bạn niềm vui. Cũng giống như việc phát triển bất kỳ thiện xảo nào – bởi bạn quán triệt những điểm trọng yếu, vấn đề càng lúc càng dễ dàng hơn, sự xác tín của bạn càng lúc càng phát triển, khả năng và nỗ lực của bạn tiếp tục tăng trưởng.

Mọi thiền định hay quán chiếu bạn đã thực hiện sẽ chẳng bao giờ bị lãng phí. Lợi lạc mà nó mang lại sẽ hiện diện trong dòng tâm thức của bạn vào lúc bạn chết, và nó sẽ giúp bạn tái sinh ở một nơi Giáo Pháp nở rộ, thân cận một vị Thầy tâm linh chân chính. Đời này sang đời khác, bạn sẽ tiến triển từ một hành giả tầm thường tới một hành giả trung bình, và từ một hành giả trung bình tới một hành giả xuất sắc. Tinh túy của việc học tập là quán chiếu, và tinh túy của sự quán chiếu là thiền định. Khi bạn tiến càng lúc càng sâu vào ý nghĩa của giáo lý, những phẩm chất phi thường của Giáo Pháp sẽ càng lúc càng rõ ràng hơn, giống như mặt trời rực rỡ hơn khi bạn bay lên cao hơn nữa.

Dấu hiệu cho thấy bạn đã hoàn toàn hấp thu được việc học Pháp của bạn là bạn trở nên an bình tự bản chất. Dấu hiệu của việc bạn đã hấp thu được việc thiền định của bạn là bạn thoát khỏi những cảm xúc che chướng (phiền não chướng). Bởi việc học tập dẫn đến sự quán chiếu và quán chiếu chuyển hóa thành thiền định, việc bạn mê say những hoạt động dối gạt của đời này sẽ suy giảm và thay vào đó bạn sẽ khát khao Giáo Pháp.

Mọi sự bạn làm phù hợp với Giáo Pháp, dù nó có vẻ nhỏ bé hay tầm thường, sẽ mang lại lợi lạc. Như Kinh Hiền Ngu nói:

Đừng xem thường những thiện hạnh nhỏ bé,
Nghĩ rằng chúng khó có thể mang lại lợi lạc;
Bởi từng giọt từng giọt nước
Cuối cùng có thể làm đầy một chiếc bình khổng lồ.

Tương tự như vậy, cho dù bạn chỉ thực hành mỗi ngày một giờ với niềm tin và sự hứng khởi, những phẩm tính tốt đẹp sẽ phát triển một cách vững chắc. Việc thực hành đều đặn làm cho tâm bạn chuyển hóa dễ dàng. Từ việc chỉ nhận ra chân lý tương đối, cuối cùng bạn sẽ đi đến một sự xác quyết sâu xa nơi chân lý tuyệt đối.

Chướng ngại chính yếu của việc phát triển những phẩm tính như thế là sự sao lãng (phóng dật). Sao lãng có thể xảy ra trong từng giây phút. Nếu bạn để thời gian trôi qua một cách vô ích, vào lúc chết bạn sẽ hối tiếc rằng bạn đã không thực hành Giáo pháp. Nhưng đến lúc ấy thì quá trễ, và sự hối tiếc của bạn sẽ chẳng giúp ích được gì. Bây giờ là lúc bạn đi tới một nơi hẻo lánh và đưa những giáo huấn bạn đã nhận từ vị Thầy của bạn vào thực hành. Như thế mỗi khoảnh khắc của đời bạn sẽ trở nên quý giá và ý nghĩa, đưa dẫn bạn càng lúc càng xa rời sinh tử và tiến gần đến sự giải thoát hơn nữa.

Chú thích:

1. Người trì tụng Mani (mani pa): người trì tụng Mani, thần chú của Đức Quán Thế Âm, Đức Phật của lòng Bi mẫn. Ở đây, “những người trì tụng Mani” được dùng như một thuật ngữ đầy trìu mến để chỉ các hành giả Giáo Pháp.

2. The Way of the Bodhisattva (Nhập Bồ Tát Hạnh), trang 121.

3. Drom Tönpa Gyalwai Jungne (‘brom ston pa rgyal ba’i ‘byung gnas, 1004-1064): đệ tử người Tây Tạng thân thiết nhất của Đức Atisha, người đã ở với vị Thầy này mười tám năm. Ngài sáng lập tu viện Reting (rwa sgreng) nơi ngài an trú và giảng dạy bảy năm trước khi thị tịch ở tuổi sáu mươi.

4. Xem The Words of My Perfect Teacher (Lời Vàng của Thầy Tôi), trang 237.

Thanh Liên trích dịch từ nguyên tác:
“The Heart of Compassion – The Thirty-Seven Verses on The Practice of a Bodhisattva” by Dilgo Khyentse Rinpoche

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33485)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6628)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11410)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30479)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30498)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 8047)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12296)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12320)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11688)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12951)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34935)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9910)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52346)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10822)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10590)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10784)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10538)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13146)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16365)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21943)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9691)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7190)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10457)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12873)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12859)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16311)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16605)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13939)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16667)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12213)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13926)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14376)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9275)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11810)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11334)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16427)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14426)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16267)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12753)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12159)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11861)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15748)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11589)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14095)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12080)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12729)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 15058)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 12019)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13194)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14625)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20819)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13311)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 11028)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20788)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14448)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20498)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17737)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14099)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31939)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12087)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant