Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

e. Sắc dục

13 Tháng Hai 201100:00(Xem: 12236)
e. Sắc dục

KINH LỜI VÀNG 
Tác giả: Dương Tú Hạc
Dịch giả: HT Thích Trí Nghiêm
 

PHẦN II 

NGÔN HÀNH 

--- o0o --- 

Chương II

TỰ LỢI 

E. SẮC DỤC

Sắc dục là xiềng cùm của đời vậy, phàm phu say đắm, không thể tự cứu. Sắc dục là bệng nặng nhứt của đời vậy, phàm phu khốn khổ đến chết chẳng khỏi. Sắc dụctai họa của đời vậy, phàm phu gặp nó, lâm nguy khó tránh.

Người tu Phật pháp đã được bỏ rồi, lại còn nghĩ vẩn, như được phóng thích, lại muốn vào ngục lại, cũng như bệnh lành, lại muốn đau lại cho nên bị người trí quở trách chính đó là điên.

Kinh Nhật Minh Bồ Tát

Đệ tử tại gia nên lìa tà dâm, với vợ hầu của mình cũng là đủ rồi; với đàn bà khác, chẳng nên sanh một niệm bất chính.

Kinh Hoa Nghiêm

Với vợ mình, còn cho là chẳng đủ, lại ưa phạm đến vợ người ta, ấy là người không biết hổ thẹn, chịu nhiều khổ mà không có chút vui vì đời này và đời sau, bị quả báo khổ buộc ràng.

Kinh Ni Kiền Tử

Phải biết tà dâm có sáu điều tai biến

Chẳng giữ được tự thân 

Chẳng giữ được vợ con 

Chẳng giữ được gia thuộc 

Vì họ nghi, nên sanh xấu 

Kẻ oan gia được cơ hội 

Các khổ đoanh vây 

Đã có những điều ác này, thời sự nghiệp phế bỏ: của chưa làm ra được thời chẳng được, của đã làm ra được thời tiêu mất, và của cải đã sẵn có chứa để từ lâu cũng tiêu hao hết.

Kinh Thiện Sanh Tử

Xâm phạm đến vợ con của người, bị chồng hoặc kẻ lân nhơn biết được, đến khi bị luy dao gậy đánh chém thương tổn thân mạng, hoặc cắt đầu, chân, hoặc bị pháp luật nã bắt giam ngục bị trọng hình.

Chết xong bị đọa hỏa ngục đốt cháy, được tái sanh làm người khuê môn bị rối loạn; xa cách pháp lành, thường ôm lòng hãi sợ chẳng được yên.

Phật dạy: dâm là hạnh bất tịnh, mê hoặc mất chánh đạo, hại mạng mà chết non, bị tội vì ngoan si, chết lại đọa ác đạo, cho nên đừng dâm loạn.

Đức Phật nói tà dâm có 10 tội: 

Bị nguy hại với vợ hay chồng mình 

Vợ chồng bất hòa thường đánh cãi luôn 

Các điều ác ngày càng tăng thêm, điều lành cành tiêu mòn 

Tấm thân chẳng giữ được, vợ con bị côi cút 

Của cải ngày càng hao mòn 

Có xảy ra các việc xấu, thường bị người nghi 

Giòng họ, bè bạn chẳng ai ưa mến 

Thường bị oán vì gieo nghiệp nhơn xấu 

Chết đọa địa ngục 

Được tái sanh làm người, gái thời bị cảnh chồng chung, trai thời vợ chẳng trinh chánh 

Luận Trí Độ

Vua Ưu Đà Diên thưa Phật rằng: tôi bị đàn bà lừa dối, muốn hại, thưa Thế Tôn! Tôi cho người đàn bà này là rất độc. Xin Ngài trừ khử đàn bà độc hại này đi. 

Đức Phật bảo vua rằng: nhà vua muốn hỏi tội người đàn bà thì trước phải hỏi tội kẻ trượng phu đã. Trượng phu có 4 điều lỗi nên bị đàn bà dối gạt: 

Vì say mê buông lung, chẳng biết gần gũi Sa môn, để lãnh thọ giới pháp thanh tịnhtu phước nghiệp; kẻ đã thọ giáo pháp của Ta cũng chẳng tin cho vững, ưa các thứ tà ác là đàn bà múa hát giỡn cợt, chỉ chăm học đòi theo đứa ngu si

Cha mẹ vì muốn lợi lạc cho con, mà làm những việc khó làm, phải chịu những đồ bất tịnh; và lại vì muốn con mau trưởng thành nên đối với khó nhọc cho bú mớm, nuôi dưỡng quên bề mỏi mệt; và nhờ của cải chính mình phải gian nan khó nhọc mới được, đem sắm dụng cụ cho con chẳng biết nhàm chán. Nhưng người con bị đàn bà...đối với song thân già yếu ngỗ nghịchcoi rẻ. Rồi có bấy nhiêu của cải bị lãng phí tiêu hao, thậm chí khiến cha mẹ không chỗ nương nhờ, đến nỗi đuổi cha mẹ ra khỏi nhà. 

Bị tà kiến, chẳng đối tưởng việc hủy hoại thân thế, tự dối gạt mình, như say đắm đàn bà là gốc. 

Làm việc phải thời keo rít tiền của, mà gái thời bất kể là bao. Nhưng có bị đàn bà khinh dễ, lấn át, hủy nhục, đánh đập, mắng trách, cũng vẫn vui chịu lấy. Hoặc khi đàn bà bị chút buồn lo, thì liền nghĩ làm thế nào cho người yêu được vui vẻ. Làm trai mà bị đàn bà dùng lời nói dối gạt đến như nước này thì thật chẳng biết nói sao! 

Nếu kẻ nam nhi chơn chính thì làm sao bị đàn bà lừa gạt? Nhà vua nghe rất vui mừng. Xin quy y Tam bảo, làm kẻ ưu bà tắc.

Kinh Bảo Tích

Ông Ma Nhơn Đề ở nước Câu Diên Di đem con gái đến chỗ Phật, thưa Phật rằng: Đứa con tôi dung mạo tuyệt đẹp, thế gian vô song địch, các vị Quốc vương, hào tộc đến cầu hôn mà tôi đều từ chối không gả. Nhưng tôi nhận thấy Ngài là bực Đại nhân nhan sắc rực rỡ nguy nga đời chưa từng thấy nên tôi xin hiến cháu này lên Ngài. Phật dạy: cái đẹp của đứa gái này ở chỗ nào? Ma Nhơn Đề đáp từ đầu cho đến chân, xem cho chu tất không chỗ nào chẳng đẹp, Phật nói: Lầm thay, đồ con mắt thịt! Ta xem thấy, từ đầu đến chân, không một chỗ nào đẹp cả. Ta thấy: ở đầu người có tóc, tóc chỉ là một thứ lông, lông ấy cũng như lông ngựa, lông voi; dưới tóc là sọ, sọ chỉ một thứ xương đầu, cũng giống như xương đầu heo của các nhà đồ tể hàng heo. Trong đâ? có não, não giống như đất bùn, nó tanh hôi nhíu mũi, nó rơi xuống đất, chẳng ai dám đụng tới. Còn hai con mắt là hai ao nước, đưa tay dụi vào nước mắt tuôn chảy. Trong hai lỗ mũi, có đầy mũi dãi, trong miệng có đàm nhớt; trong bụng có gan phổi v.v...toàn là những vật tanh hôi. Trường vị, bàng quan đựng toàn cứt, đái hôi thúi khó tả. Hai tay, hai chân là xương với xương kề nhau như trụ cột. Gân, da co dãn nhờ hơi thở mà chuyển động, không khác gì con người máy bằng gỗ. Nếu mổ xẻ nó ra từng đốt rời rã, đầu chân nằm ngổn ngang. Tất cả loài người đều như vậy cả.

Vậy thì có chi là đẹp mà ngươi bảo vô song. Ta không dùng vợ, thôi ngươi đem nó về đi. Ma Nhơn Đề nghe Phật nói thế xấu hổ vội dắt con chạy về mà chẳng kịp bái từ.

Kinh Xuất Diệu

A Nan đi khất thực rồi, đang khi cầm bình bát đi dọc theo mé sông, chợt thấy một cô gái gánh nước. A Nan đến xin nước với cô, cô liền cho nước rồi đi theo sau A Nan, đến chỗ Ngài ở, nàng mới trở về nhà. Về nhà, nàng thưa mẹ tên là Ma Đăng rằng: Thưa mẹ khi nào mẹ gả con lấy chồng đừng gả cho người nào khác. Hôm nay đi gánh nước ở sông, con gặp một ông Sa môn, ông lại xin nước, con cho và hỏi tên, ông cho biếtA Nan. Con được A Nan làm chồng thời mẹ gả, bằng không thời con chẳng ưng ai hết.

Bà mẹ đi dò hỏi, mới biết A Nanđệ tử Phật.

Bà về nhà bảo với con rằng: A Nan thờ Đạo Phật làm sao làm chồng con được? Nàng nghe thế buồn rầu khóc lóc bỏ ăn.

Bà mẹ vốn rành nghề ma thuật, mời A Nan về nhà cúng cơm, nàng rất vui sướng. Bấy giờ bà thưa với A Nan rằng: con gái tôi nó muốn làm vợ ông.

A Nan nói: tôi giữ giới không cưới vợ. Bà ta buộc: con tôi chẳng được ông làm chồng thời nó tự tử. A Nan nói: đức Phật thầy tôi chẳng cho phép tôi gần đàn bà.

Bà mẹ liền vào trong nhà, đem chuyện ấy thuật lại với con. Nàng khóc rống và bảo mẹ rằng: xin mẹ đóng kín cửa lại đừng cho ông ra đi, tối nay con bắt làm chồng. Bà già nghe lời con đóng cửa, rồi dùng phép thuật mà trói A Nan lại; trời vừa tối, nàng trang điểm thân thể rất đẹp rồi đi vào nhà trong. Ngài A Nan chẳng đến giường ngủ. Bà ta đốt một đống lửa, rồi đến nằm phặng chéo áo A Nan mà rằng: Nếu ông không vì con gái tôi làm chồng nó, thời tôi vất ông vào đống lửa này. Ngài A Nan rất khổ tâm, chẳng biết làm sao, chỉ biết niệm Phật mà thôi.

Bấy giờ đức Phật quán biết A Nan lâm nạn liền đến cứu đem về. Khi thấy A Nan ra đi nàng khóc kêu liên miên.

Sáng ngày nàng đi tìm cho được, khi thấy A Nan đang mang bình bát đi khất thực thì nàng đi theo sau xem thấy bộ đi, gương mặt của A Nan, mặc dù Ngài đã cố tâm đi tránh, mà nàng vẫn theo luôn.

Khi A Nan về đến nơi và thưa với Phật rằng: con gái của mụ Ma Đăng nó đi theo sau lưng tôi luôn cả ngày nay. Đức Phật sai người gọi đến và hỏi: ngươi đi theo A Nan để xin thứ gì? Nàng thưa: tôi nghe A Nan không vợ, tôi cũng không chồng, nên tôi muốn xin làm vợ. Phật nói: A Nan là kẻ trọc đầu, còn ngươi có tóc, nếu ngươi có thể cạo tóc, thời Ta sẽ cho A Nan làm chồng ngươi. Nàng thưa: tôi có thể cạo tóc, Phật nói: phải trở về nhà xin với mẹ ngươi đã, cạo đầu xong rồi sẽ lên đây...

Nàng về nhà thuật lại lời Phật dạy và xin mẹ cho cạo đầu. Bà nói: từ khi sanh con, mẹ ưa cái đầu tóc con lắm, nhưng vì sao con quyết lấy ông Sa môn làm chồng? Chớ ý mẹ muốn gả con cho những kẻ giàu sang trong nước là hơn. Nàng quả quyết: đầu tôi có chết vẫn xin làm vợ A Nan mà thôi. Bà nói: thiệt mày làm nhục nhã giòng họ tao quá. Bất đắc dĩ bà phải hạ dao cắt tóc.

Xong, nàng mới đến chỗ Phật và thưa: tôi đã cắt tóc rồi. Phật hỏi: Người yêu cái gì của A Nan? Dạ thưa tôi yêu con mắt, lỗ mũi, cái miệng, cái tai, tiếng nói và cả bộ tịch đi đứng của A Nan. Đức Phật dạy: trong hai con mắt thời có nước ghèn, trong hai lô?mũi thời có cứt mũi, trong hai lỗ tai thời có cứt ráy, trong miệng thời có dàm dãi và trong bụng là đầy cứt đái, toàn là những thứ tanh hôi nhơ nhớp bất tịnh. Mà đã thành vợ chồng thời tất phải có khi trần truồng xấu xí và do đó mà đẻ con. Đã có con thì nó phải chết. Mà khi nó chết thời kêu khóc thảm thê.

Thế thì đối với cái thân có ích đâu mà yêu mến. Nàng liền suy nghĩ, lúc mà hai thân trần truồng xấu xí thời trong lòng hết nghĩ bậy, tức thì chứng được A La Hán.

Bấy giờ Phật biết nàng đã chứng Đạo nên Ngài bảo: Thôi ngươi đứng dậy đi đến chỗ A Nan đi! Nàng xấu hổ quá liền đến quì trước Phật cúi đầu thưa rằng: con vì ngu si nên theo A Nan, nay con đã tỉnh ngộ như người đi trong tối được ánh sáng đèn lửa, như kẻ đui được sáng mắt, như người già yếu được gậy. Nay Phật cho tôi chứng được Đạo, tâm tôi được khai ngộ như vậy.

Khi ấy đức Phật bảo các Tỳ kheo rằng: trong đời quá khứ cách nay chừng 100 đời, con gái của bà Ma Đăng này đã cùng với A Nan thành vợ chồng, thương mến nhau lắm. Ngày nay đoi đứa gặp nhau như anh gặp em. Như vậy đạo Phật ai được nghe, quyết địnhlợi ích chớ?

Kinh Ma Đăng Nữ

Phàm phu trọng sắc dục, đành chịu làm tôi mọi, trọn đời chạy rong theo, bị đủ điều khổ sở.

Kinh Nhựt Minh Bồ Tát

Phật dạy: dù là vì lợi dưỡng, cũng đừng nên làm nghề mãi dâm, vì chẳng phải lối sanh sống chân chính.

Kinh Phạm Võng

 


 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15882)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 11166)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53830)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 13068)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16699)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15562)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 19292)
"Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật".
(Xem: 20051)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15647)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15484)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15272)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 20500)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 24190)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 15658)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 13135)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 20390)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13389)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 29124)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11820)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
(Xem: 18421)
Tôi được Tăng sai phụ trách hướng dẫn Bồ tát Học xứ cho chúng Giới tử tân thọ Bồ tát giới...
(Xem: 16775)
Kinh AN BAN THỦ Ý là một trong những bản kinh được xuất bản sớm nhất ở Viễn Đông và đã góp phần vào việc phổ biến Phật giáo qua việc giảng dạy cách thức thiền tập...
(Xem: 13342)
Bồ tát Long Thọ trước tác Trung luận gồm 27 phẩm (chương) 446 bài kệ, mỗi bài 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ở Ấn Độ các bản luận giải thích như Vô Úy luận...
(Xem: 12894)
Trong Luật tạng, bộ Luật đầu tiên theo trong sử nhắc đến là bộ Bát thập tụng luật do Tôn giả Ưu-ba-li tám mươi lần ngồi tụng thì mới xong bộ Luật của Phật dạy.
(Xem: 13349)
Một thời Đức Thế Tôn ở tại cung điện của chú tể Đại dương, cùng với chúng đại tỳ kheo tám ngàn vị và chúng đại bồ tát ba mươi hai ngàn vị.
(Xem: 13104)
Người giảng: Lão Hòa thượng Tịnh Không; Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ – Viên Đạt cư sĩ; Biên tập: Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 12985)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 215, Hán dịch Pháp Cự; Việt dịch: Thích Bảo An
(Xem: 13121)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 706, Bộ Kinh Tập, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Thiên Ân
(Xem: 13656)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 số 1648 thuộc Luận Tập Bộ Toàn; Ưu Ba Đề Sa; Tăng Già Bà La; HT Thích Như Điển
(Xem: 11821)
Vãng sinh tập đều ghi chép nhiều truyện có thật đời xưa tu Tịnh độ được vãng sinh Tây phương của đủ các hạng người xuất gia lẫn tại gia, của cả loài vật... Chúc Đức dịch Việt
(Xem: 14360)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Luận Tập, Kinh số 1666; Bồ-tát Mã Minh tạo luận; Hán dịch: Chân Đế; Việt dịch: Nguyên Hồng
(Xem: 17841)
Đây là một quyển kinh Phật Giáo rất phổ thông và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng quan trọng trên thế giới... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22727)
Kinh Pháp Hoa ai cũng biết là bộ Kinh Tối Thượng Thừa mà nó không phải Đại Thừa và cũng gọi là Phật Thừa... HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 13537)
Kinh PHÁP-HOA là một bộ kinh lớn mà từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt-độ, được lưu thông nhứt và được nhiều người tụng-trì nhứt trong các bộ kinh lớn... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 14446)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Hoa Nghiêm, Kinh số 0301, Hán dịch: Thật Xoa Nan Ðà; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 105962)
Sám văn gồm có ba cuốn ngày nay là sám văn ấy. Đem nước từ bi tam muội rửa sạch oan nghiệp nhiều kiếp, lấy ý nghĩa đó để mệnh danh Thủy sám... HT Thích Trí Quang
(Xem: 14692)
Trong đời mạt pháp, các đệ tử của ta chỉ đeo đuổi theo bên ngoài, ít có ai quan niệm đến vấn đề Sanh Tử... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 19909)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0665, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 38567)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0642; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Định Huệ
(Xem: 15676)
阿 毘 達 磨 俱 舍 論 A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận I... dịch theo bản Sanskrit... Tuệ Sỹ
(Xem: 34834)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 16182)
Phật Thừa Tôn Yếu luận là một trong nhiều tác phẩm của Đại sư Thái Hư, mang ý nghĩa bao quát nội dung giáo nghĩa Đại thừa Tiểu thừa... Thích Thiện Hạnh Dịch
(Xem: 11460)
Kim Sư Tử Chương là một tác phẩm rất ngắn của thầy Pháp Tạng nhưng bao hàm được giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 15805)
Luận Phật Thừa Tông Yếutùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bảncương yếu của Phật pháp... Nguyên tác: Đại sư Thái Hư; Thích Nhật Quang dịch Việt
(Xem: 14180)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0639, Hán dịch: Na Liên Ðề Da Xá, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12944)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0628, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích nữ Tịnh Nguyên
(Xem: 13830)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0626, Hán dịch: Chi Lâu Ca Sấm, Việt dịch: Phật tử Phước Thắng
(Xem: 12634)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0619, Hán dịch: Đàm Ma Mật Đa, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 19517)
Từ Bi Thủy Sám Pháp - Trước thuật: Ngộ Đạt Thiền Sư; Dịch Giả: Thích Huyền Dung
(Xem: 27129)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, số 2076, Nguyên tác Đạo Nguyên, Việt dịch: Lý Việt Dũng
(Xem: 13237)
Thiết Lập Tịnh Độ là quyển sách của HT Thích Nhất Hạnh giảng giải về Kinh A Di Đà với góc nhìn thiền học
(Xem: 13599)
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí-Tịnh, Anh dịch: Quảng Định / Quảng Hiếu hiệu đính, Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 21748)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0615, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 18076)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0614, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 22042)
Quyển "Thập thiện nghiệp đạo kinh giảng yếu" của ngài Thái Hư Pháp sư, thấy tóm tắt dễ hiểu, lời lẽ giản dị mà ý nghĩa đầy đủ, lại rất hợp với căn cơ hiện tại... Thái Hư
(Xem: 14326)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0600, Hán dịch: Thực Soa Nan Đà, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 16201)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0599, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 16351)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 19289)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 24990)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant