Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

e. Sắc dục

13 Tháng Hai 201100:00(Xem: 12238)
e. Sắc dục

KINH LỜI VÀNG 
Tác giả: Dương Tú Hạc
Dịch giả: HT Thích Trí Nghiêm
 

PHẦN II 

NGÔN HÀNH 

--- o0o --- 

Chương II

TỰ LỢI 

E. SẮC DỤC

Sắc dục là xiềng cùm của đời vậy, phàm phu say đắm, không thể tự cứu. Sắc dục là bệng nặng nhứt của đời vậy, phàm phu khốn khổ đến chết chẳng khỏi. Sắc dụctai họa của đời vậy, phàm phu gặp nó, lâm nguy khó tránh.

Người tu Phật pháp đã được bỏ rồi, lại còn nghĩ vẩn, như được phóng thích, lại muốn vào ngục lại, cũng như bệnh lành, lại muốn đau lại cho nên bị người trí quở trách chính đó là điên.

Kinh Nhật Minh Bồ Tát

Đệ tử tại gia nên lìa tà dâm, với vợ hầu của mình cũng là đủ rồi; với đàn bà khác, chẳng nên sanh một niệm bất chính.

Kinh Hoa Nghiêm

Với vợ mình, còn cho là chẳng đủ, lại ưa phạm đến vợ người ta, ấy là người không biết hổ thẹn, chịu nhiều khổ mà không có chút vui vì đời này và đời sau, bị quả báo khổ buộc ràng.

Kinh Ni Kiền Tử

Phải biết tà dâm có sáu điều tai biến

Chẳng giữ được tự thân 

Chẳng giữ được vợ con 

Chẳng giữ được gia thuộc 

Vì họ nghi, nên sanh xấu 

Kẻ oan gia được cơ hội 

Các khổ đoanh vây 

Đã có những điều ác này, thời sự nghiệp phế bỏ: của chưa làm ra được thời chẳng được, của đã làm ra được thời tiêu mất, và của cải đã sẵn có chứa để từ lâu cũng tiêu hao hết.

Kinh Thiện Sanh Tử

Xâm phạm đến vợ con của người, bị chồng hoặc kẻ lân nhơn biết được, đến khi bị luy dao gậy đánh chém thương tổn thân mạng, hoặc cắt đầu, chân, hoặc bị pháp luật nã bắt giam ngục bị trọng hình.

Chết xong bị đọa hỏa ngục đốt cháy, được tái sanh làm người khuê môn bị rối loạn; xa cách pháp lành, thường ôm lòng hãi sợ chẳng được yên.

Phật dạy: dâm là hạnh bất tịnh, mê hoặc mất chánh đạo, hại mạng mà chết non, bị tội vì ngoan si, chết lại đọa ác đạo, cho nên đừng dâm loạn.

Đức Phật nói tà dâm có 10 tội: 

Bị nguy hại với vợ hay chồng mình 

Vợ chồng bất hòa thường đánh cãi luôn 

Các điều ác ngày càng tăng thêm, điều lành cành tiêu mòn 

Tấm thân chẳng giữ được, vợ con bị côi cút 

Của cải ngày càng hao mòn 

Có xảy ra các việc xấu, thường bị người nghi 

Giòng họ, bè bạn chẳng ai ưa mến 

Thường bị oán vì gieo nghiệp nhơn xấu 

Chết đọa địa ngục 

Được tái sanh làm người, gái thời bị cảnh chồng chung, trai thời vợ chẳng trinh chánh 

Luận Trí Độ

Vua Ưu Đà Diên thưa Phật rằng: tôi bị đàn bà lừa dối, muốn hại, thưa Thế Tôn! Tôi cho người đàn bà này là rất độc. Xin Ngài trừ khử đàn bà độc hại này đi. 

Đức Phật bảo vua rằng: nhà vua muốn hỏi tội người đàn bà thì trước phải hỏi tội kẻ trượng phu đã. Trượng phu có 4 điều lỗi nên bị đàn bà dối gạt: 

Vì say mê buông lung, chẳng biết gần gũi Sa môn, để lãnh thọ giới pháp thanh tịnhtu phước nghiệp; kẻ đã thọ giáo pháp của Ta cũng chẳng tin cho vững, ưa các thứ tà ác là đàn bà múa hát giỡn cợt, chỉ chăm học đòi theo đứa ngu si

Cha mẹ vì muốn lợi lạc cho con, mà làm những việc khó làm, phải chịu những đồ bất tịnh; và lại vì muốn con mau trưởng thành nên đối với khó nhọc cho bú mớm, nuôi dưỡng quên bề mỏi mệt; và nhờ của cải chính mình phải gian nan khó nhọc mới được, đem sắm dụng cụ cho con chẳng biết nhàm chán. Nhưng người con bị đàn bà...đối với song thân già yếu ngỗ nghịchcoi rẻ. Rồi có bấy nhiêu của cải bị lãng phí tiêu hao, thậm chí khiến cha mẹ không chỗ nương nhờ, đến nỗi đuổi cha mẹ ra khỏi nhà. 

Bị tà kiến, chẳng đối tưởng việc hủy hoại thân thế, tự dối gạt mình, như say đắm đàn bà là gốc. 

Làm việc phải thời keo rít tiền của, mà gái thời bất kể là bao. Nhưng có bị đàn bà khinh dễ, lấn át, hủy nhục, đánh đập, mắng trách, cũng vẫn vui chịu lấy. Hoặc khi đàn bà bị chút buồn lo, thì liền nghĩ làm thế nào cho người yêu được vui vẻ. Làm trai mà bị đàn bà dùng lời nói dối gạt đến như nước này thì thật chẳng biết nói sao! 

Nếu kẻ nam nhi chơn chính thì làm sao bị đàn bà lừa gạt? Nhà vua nghe rất vui mừng. Xin quy y Tam bảo, làm kẻ ưu bà tắc.

Kinh Bảo Tích

Ông Ma Nhơn Đề ở nước Câu Diên Di đem con gái đến chỗ Phật, thưa Phật rằng: Đứa con tôi dung mạo tuyệt đẹp, thế gian vô song địch, các vị Quốc vương, hào tộc đến cầu hôn mà tôi đều từ chối không gả. Nhưng tôi nhận thấy Ngài là bực Đại nhân nhan sắc rực rỡ nguy nga đời chưa từng thấy nên tôi xin hiến cháu này lên Ngài. Phật dạy: cái đẹp của đứa gái này ở chỗ nào? Ma Nhơn Đề đáp từ đầu cho đến chân, xem cho chu tất không chỗ nào chẳng đẹp, Phật nói: Lầm thay, đồ con mắt thịt! Ta xem thấy, từ đầu đến chân, không một chỗ nào đẹp cả. Ta thấy: ở đầu người có tóc, tóc chỉ là một thứ lông, lông ấy cũng như lông ngựa, lông voi; dưới tóc là sọ, sọ chỉ một thứ xương đầu, cũng giống như xương đầu heo của các nhà đồ tể hàng heo. Trong đâ? có não, não giống như đất bùn, nó tanh hôi nhíu mũi, nó rơi xuống đất, chẳng ai dám đụng tới. Còn hai con mắt là hai ao nước, đưa tay dụi vào nước mắt tuôn chảy. Trong hai lỗ mũi, có đầy mũi dãi, trong miệng có đàm nhớt; trong bụng có gan phổi v.v...toàn là những vật tanh hôi. Trường vị, bàng quan đựng toàn cứt, đái hôi thúi khó tả. Hai tay, hai chân là xương với xương kề nhau như trụ cột. Gân, da co dãn nhờ hơi thở mà chuyển động, không khác gì con người máy bằng gỗ. Nếu mổ xẻ nó ra từng đốt rời rã, đầu chân nằm ngổn ngang. Tất cả loài người đều như vậy cả.

Vậy thì có chi là đẹp mà ngươi bảo vô song. Ta không dùng vợ, thôi ngươi đem nó về đi. Ma Nhơn Đề nghe Phật nói thế xấu hổ vội dắt con chạy về mà chẳng kịp bái từ.

Kinh Xuất Diệu

A Nan đi khất thực rồi, đang khi cầm bình bát đi dọc theo mé sông, chợt thấy một cô gái gánh nước. A Nan đến xin nước với cô, cô liền cho nước rồi đi theo sau A Nan, đến chỗ Ngài ở, nàng mới trở về nhà. Về nhà, nàng thưa mẹ tên là Ma Đăng rằng: Thưa mẹ khi nào mẹ gả con lấy chồng đừng gả cho người nào khác. Hôm nay đi gánh nước ở sông, con gặp một ông Sa môn, ông lại xin nước, con cho và hỏi tên, ông cho biếtA Nan. Con được A Nan làm chồng thời mẹ gả, bằng không thời con chẳng ưng ai hết.

Bà mẹ đi dò hỏi, mới biết A Nanđệ tử Phật.

Bà về nhà bảo với con rằng: A Nan thờ Đạo Phật làm sao làm chồng con được? Nàng nghe thế buồn rầu khóc lóc bỏ ăn.

Bà mẹ vốn rành nghề ma thuật, mời A Nan về nhà cúng cơm, nàng rất vui sướng. Bấy giờ bà thưa với A Nan rằng: con gái tôi nó muốn làm vợ ông.

A Nan nói: tôi giữ giới không cưới vợ. Bà ta buộc: con tôi chẳng được ông làm chồng thời nó tự tử. A Nan nói: đức Phật thầy tôi chẳng cho phép tôi gần đàn bà.

Bà mẹ liền vào trong nhà, đem chuyện ấy thuật lại với con. Nàng khóc rống và bảo mẹ rằng: xin mẹ đóng kín cửa lại đừng cho ông ra đi, tối nay con bắt làm chồng. Bà già nghe lời con đóng cửa, rồi dùng phép thuật mà trói A Nan lại; trời vừa tối, nàng trang điểm thân thể rất đẹp rồi đi vào nhà trong. Ngài A Nan chẳng đến giường ngủ. Bà ta đốt một đống lửa, rồi đến nằm phặng chéo áo A Nan mà rằng: Nếu ông không vì con gái tôi làm chồng nó, thời tôi vất ông vào đống lửa này. Ngài A Nan rất khổ tâm, chẳng biết làm sao, chỉ biết niệm Phật mà thôi.

Bấy giờ đức Phật quán biết A Nan lâm nạn liền đến cứu đem về. Khi thấy A Nan ra đi nàng khóc kêu liên miên.

Sáng ngày nàng đi tìm cho được, khi thấy A Nan đang mang bình bát đi khất thực thì nàng đi theo sau xem thấy bộ đi, gương mặt của A Nan, mặc dù Ngài đã cố tâm đi tránh, mà nàng vẫn theo luôn.

Khi A Nan về đến nơi và thưa với Phật rằng: con gái của mụ Ma Đăng nó đi theo sau lưng tôi luôn cả ngày nay. Đức Phật sai người gọi đến và hỏi: ngươi đi theo A Nan để xin thứ gì? Nàng thưa: tôi nghe A Nan không vợ, tôi cũng không chồng, nên tôi muốn xin làm vợ. Phật nói: A Nan là kẻ trọc đầu, còn ngươi có tóc, nếu ngươi có thể cạo tóc, thời Ta sẽ cho A Nan làm chồng ngươi. Nàng thưa: tôi có thể cạo tóc, Phật nói: phải trở về nhà xin với mẹ ngươi đã, cạo đầu xong rồi sẽ lên đây...

Nàng về nhà thuật lại lời Phật dạy và xin mẹ cho cạo đầu. Bà nói: từ khi sanh con, mẹ ưa cái đầu tóc con lắm, nhưng vì sao con quyết lấy ông Sa môn làm chồng? Chớ ý mẹ muốn gả con cho những kẻ giàu sang trong nước là hơn. Nàng quả quyết: đầu tôi có chết vẫn xin làm vợ A Nan mà thôi. Bà nói: thiệt mày làm nhục nhã giòng họ tao quá. Bất đắc dĩ bà phải hạ dao cắt tóc.

Xong, nàng mới đến chỗ Phật và thưa: tôi đã cắt tóc rồi. Phật hỏi: Người yêu cái gì của A Nan? Dạ thưa tôi yêu con mắt, lỗ mũi, cái miệng, cái tai, tiếng nói và cả bộ tịch đi đứng của A Nan. Đức Phật dạy: trong hai con mắt thời có nước ghèn, trong hai lô?mũi thời có cứt mũi, trong hai lỗ tai thời có cứt ráy, trong miệng thời có dàm dãi và trong bụng là đầy cứt đái, toàn là những thứ tanh hôi nhơ nhớp bất tịnh. Mà đã thành vợ chồng thời tất phải có khi trần truồng xấu xí và do đó mà đẻ con. Đã có con thì nó phải chết. Mà khi nó chết thời kêu khóc thảm thê.

Thế thì đối với cái thân có ích đâu mà yêu mến. Nàng liền suy nghĩ, lúc mà hai thân trần truồng xấu xí thời trong lòng hết nghĩ bậy, tức thì chứng được A La Hán.

Bấy giờ Phật biết nàng đã chứng Đạo nên Ngài bảo: Thôi ngươi đứng dậy đi đến chỗ A Nan đi! Nàng xấu hổ quá liền đến quì trước Phật cúi đầu thưa rằng: con vì ngu si nên theo A Nan, nay con đã tỉnh ngộ như người đi trong tối được ánh sáng đèn lửa, như kẻ đui được sáng mắt, như người già yếu được gậy. Nay Phật cho tôi chứng được Đạo, tâm tôi được khai ngộ như vậy.

Khi ấy đức Phật bảo các Tỳ kheo rằng: trong đời quá khứ cách nay chừng 100 đời, con gái của bà Ma Đăng này đã cùng với A Nan thành vợ chồng, thương mến nhau lắm. Ngày nay đoi đứa gặp nhau như anh gặp em. Như vậy đạo Phật ai được nghe, quyết địnhlợi ích chớ?

Kinh Ma Đăng Nữ

Phàm phu trọng sắc dục, đành chịu làm tôi mọi, trọn đời chạy rong theo, bị đủ điều khổ sở.

Kinh Nhựt Minh Bồ Tát

Phật dạy: dù là vì lợi dưỡng, cũng đừng nên làm nghề mãi dâm, vì chẳng phải lối sanh sống chân chính.

Kinh Phạm Võng

 


 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11727)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 12044)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11199)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11434)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12141)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12652)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10862)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 18101)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11819)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 10043)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10245)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12454)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15453)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11315)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14422)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12214)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15504)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12095)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12495)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11289)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12170)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10703)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12627)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13271)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14977)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12792)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16677)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19777)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13213)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12769)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12370)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11966)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 11012)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13634)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 12046)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11939)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11733)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12857)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14633)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12711)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15772)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13728)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 13009)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9959)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18124)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11265)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9155)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12283)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13149)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10387)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12277)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15470)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16704)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12326)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11596)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14385)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19856)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14244)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24740)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10777)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant