Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

A. Nghi thức ở chúng Tỳ-kheo ni

02 Tháng Ba 201100:00(Xem: 11348)
A. Nghi thức ở chúng Tỳ-kheo ni

TĂNG ĐỒ NHÀ PHẬT (HÁN VIỆT)
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

TỲ-KHEO VÀ TỲ-KHEO NI

A. NGHI THỨC Ở CHÚNG TỲ-KHEO NI

Người muốn xin thọ giới tỳ-kheo ni, khi mới đến phải cúi đầu lễ lạy hết thảy đại chúng ni tăng. Lễ chúng ni tăng xong rồi, vị ni giới sư sẽ dạy đắp y, mang bình bát, hỏi người ấy rằng:

Năm tấm y và bình bát này có phải là của cô không?

Người xin thọ giới đáp: “Thưa phải.”

Khi ấy, ni giới sư dạy cho người xin thọ giới thưa trước đại chúng rằng:

“Con tên là... ... với năm tấm y và bình bát này xin nguyện suốt đời thọ trì không lìa bỏ.”

Lập lại như vậy ba lần. Rồi mới thưa thỉnh hòa thượng ni rằng:

“Kính bạch đại đức thương tưởng, con tên là ... ... nguyện thỉnh ngài làm hòa thượng ni, xin ngài vì con mà làm hòa thượng ni. Con nương theo ngài mà được chúng tăng cho thọ giới cụ túc. Xin ngài thương xót con.”

Lập lại như vậy ba lần. Khi ấy, vị ni giới sư mới hỏi hòa thượng ni ấy rằng:

“Ngài có thể vì đệ tử thức-xoa-ma-na đây mà làm hòa thượng ni đỡ đầu được chăng?”

Vị hòa thượng ni đáp rằng: “Có thể được.”

Liền đó, ni giới sư bảo người xin thọ giới đi ra một nơi khác, có thể nhìn thấy nhưng không thể nghe được mọi việc trong giới đàn.

Sau đó, vị ni giới sư mới hỏi cả đại chúng rằng:

“Các vị, ai có thể vì đệ tử thức-xoa-ma-na tên ... ... này mà làm giáo thọ sư?”

Vị tỳ-kheo ni nào nhận làm giáo thọ sư sẽ đáp lại rằng: “Tôi có thể làm được.”

Khi ấy, ni giới sư thưa trước đại chúng rằng:

“Kính bạch chư đại đức ni tăng, thức-xoa-ma-na đây tên là ... ....., nay cầu được hòa thượng ni tên là... ..., xin được thọ cụ túc giới. Nay có tỳ-kheo ni tên là... ... nhận làm giáo thọ sư, vì đệ tử tên ... ... mà dạy dỗ. Nếu chư đại đức ni tăng thấy đây là lúc thích hợpưng thuận, tỳ-kheo ni tên ... ... sẽ vì đệ tử tên ... ... này mà làm giáo thọ sư, lo việc dạy dỗ.”

Rồi lại thưa tiếp rằng:

“Kính bạch chư đại đức ni tăng, thức-xoa-ma-na tên ... ... đây, theo hòa thượng ni tên... ... cầu thọ cụ túc giới, đã có tỳ-kheo ni tên ... ... nhận làm giáo thọ sư để dạy dỗ. Như có ai trong số chư đại đức ni tăng ưng thuận việc này, xin lặng thinh chấp nhận. Vị nào không ưng thuận xin tùy ý nói ra.”

Nếu đại chúng ni đều lặng thinh tỏ ý đã ưng thuận, xem như đã lập xong giáo thọ sư cho người xin thọ giới.

Tiếp theo, vị ni sư giáo thọ đi đến chỗ người xin thọ giới đã lánh ra lúc nãy, dạy sửa sang y phục cho tề chỉnh, quỳ gối chân phải xuống, chắp hai tay cung kính. Ni sư giáo thọ dạy rằng:

“Cô nên nghe cho rõ đây. Giờ là lúc phải chí thành, lúc phải nói lên sự thật. Nay ta hỏi cô, điều nào đúng thật, phải thưa là đúng thật, như có gì không thật, phải thưa là không thật.”

Rồi vị ni sư giáo thọ hỏi người xin thọ giới rằng:

“Cô có thật là người nữ bình thường, không có dị tật, khiếm khuyết gì hay không? Cô có mắc các chứng bệnh lâu năm hoặc mất khả năng sanh sản không? Cô có vi phạm vào pháp luật không?

“Cha mẹ cô còn sống không? Cô có chồng hay chưa?”

Nếu đáp là cha mẹ còn sống hoặc đã có chồng, lại hỏi xem cha mẹ hoặc chồng có đồng ý cho xuất gia hay không?

Ni giáo sư lại hỏi tiếp rằng:

“Cô có đủ năm tấm y và bình bát để khất thực hay không? Cô tên là gì? Hòa thượng ni đỡ đầu tên là gì?”

Người xin thọ giới phải theo từng câu hỏi mà trả lời thông suốt.

Ni sư giáo thọ hỏi xong, liền trở lại thưa trước đại chúng rằng:

“Kính bạch chư đại đức ni tăng. Đệ tử thức-xoa-ma-na tên ... ... đây, tôi đã xét hỏi xong, không có các sự ngăn ngại việc xuất gia.”

Ni sư yết-ma khi đó liền nói: “Nếu xét thấy là trong sạch, có thể cho vào đây được.”

Rồi người xin thọ giới thỉnh hòa thượng ni yết-ma, thưa trước đại chúng rằng:

“Kính bạch chư đại đức ni tăng. Đệ tử tên là ... ... theo hòa thượng ni ... ... cầu thọ cụ túc giới. Nay đệ tử xin chư đại đức ni tăng thuận cho hòa thượng ni ... ... làm hòa thượng ni yết-ma của đệ tử. Xin chúng ni tăng và hòa thượng ni... ... mở lòng thương xót ưng thuận cho.”

Thưa thỉnh như vậy ba lần. Ni sư yết-ma liền thưa trước đại chúng rằng:

“Kính bạch chư đại đức ni tăng. Đệ tử tên ... ... đây theo hòa thượng ni ... ... cầu thọ cụ túc giới. Nay lại xin với chúng ni tăng thỉnh hòa thượng yết-ma. Nếu chúng ni tăng thấy đây là lúc thích hợpưng thuận, tôi xin đối trước chúng tăng xét hỏi về các pháp ngăn ngại việc xuất gia.”

Sau đó, ni sư yết-ma ở giữa đại chúng công khai lập lại những câu hỏi mà ni giáo sư đã hỏi. Người xin thọ giới cũng như sự thậttrả lời.

Hỏi đáp xong, ni sư yết-ma thưa trước đại chúng rằng:

“Chư đại đức ni tăng, còn có điều chi chưa hỏi chăng? Nếu có điều chi chưa hỏi xin cứ hỏi. Nếu không, xin lặng yên.”

Như đại chúng không có ai lên tiếng, ni giới sư liền thưa rằng:

“Kính bạch chư đại đức ni tăng. Thức-xoa-ma-na tên... ... đây, theo hòa thượng ni ... ... cầu thọ cụ túc giới. Nay xin được chúng ni tăng thuận cho làm hòa thượng ni yết-ma. Đệ tử ... ... tự nói là trong sạch, không có điều chi khó khăn ngăn ngại việc xuất gia, tuổi đời đã đủ, y bát đầy đủ, có hòa thượng ni ... ... làm hòa thượng ni đỡ đầu. Nếu chư ni tăng thấy đây là lúc thích hợpưng thuận, xin vì đệ tử ... ... mà nhận cho làm hòa thượng ni yết-ma.”

Sau cùng, ni giới sư thưa trước đại chúng rằng:

“Kính bạch chư đại đức ni tăng. Thức-xoa-ma-na tên ... ... đây, theo hòa thượng ni ... ... xin được thọ giới cụ túc, đã xin với chúng ni tăng xin nhận các vị hòa thượng ni yết-ma, hòa thượng ni đỡ đầu, đệ tử này tự nói rằng trong sạch, không có các việc khó khăn ngăn ngại sự xuất gia, tuổi đời đã đủ, y bát đầy đủ, hòa thượng ni ... ... là hòa thượng ni yết-ma, hòa thượng ni ... ... đỡ đầu. Nếu chúng ni tăng thấy đây là lúc thích hợpưng thuận, xin lặng yên chấp nhận. Nếu có ai không ưng thuận xin tùy tiện nói ra.”

Nếu trong chúng ni tăng không có ai phản đối, nghi thứcgiáo hội tỳ-kheo ni đến đây xem như hoàn tất.

Nghi thức này được thực hiện ở tại chùa của chư ni, nhưng việc thọ cụ túc giới còn phải qua giáo hội tỳ-kheo nữa. Ngay trong ngày, người xin thọ giới phải đến chỗ của chư tăngthọ cụ túc giới.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12622)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 14192)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10941)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10611)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11298)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 12093)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13245)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13760)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33779)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11418)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 13039)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13163)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11731)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 18006)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11528)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11949)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11626)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 19095)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12663)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11449)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13239)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15890)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11943)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11794)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12927)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12749)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 14056)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 13070)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 13040)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13408)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12852)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12775)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11824)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11821)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12438)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12481)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19934)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 12072)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 12092)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16998)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12762)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 15184)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 16244)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12975)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12334)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 12015)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 12019)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13257)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16604)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 13336)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12611)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11924)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19965)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11261)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11360)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10513)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 11188)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 11042)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 10126)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11832)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant