Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

4. Đệ tử phẩm - Đệ tam

03 Tháng Ba 201100:00(Xem: 7920)
4. Đệ tử phẩm - Đệ tam

KINH DUY-MA-CẬT (Hán-Việt)
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

DUY-MA-CẬT SỞ THUYẾT KINH
QUYỂN THƯỢNG

Đệ tử phẩm - Đệ tam

弟子品
第 三

爾時長者維摩詰自念。寢疾於牀。世尊大慈寧不垂愍。

佛知其意。即告舍利弗。汝行詣維摩詰問疾。

舍利弗白佛言。世尊。我不堪任詣彼問疾。所以者何。憶念我昔曾於林中宴坐樹下。時維摩詰來謂我言。唯舍利弗。不必是坐為宴坐也。夫宴坐者。不於三界現身 意。是為宴坐。不起滅定而現諸威儀。是為宴坐。不捨道法而現凡夫事。是為宴坐。心不住內亦不在外。是為宴坐。於諸見不動而修行三十七品。是為宴坐。不斷煩 惱而入涅槃。是為宴坐。若能如是坐者。佛所印可。

時我世尊。聞說是語默然而止不能加報。故我不任詣彼問疾。

佛告大目犍連。汝行詣維摩詰問疾。

目連白佛言。世尊。我不堪任詣彼問疾。所以者何。憶念我昔入毘耶離大城。於里巷中為諸居士說法。時維摩詰來謂我言。唯大目連。為白衣居士說法。不當如仁者 所說。夫說法者當如法說。法無衆生離衆生垢故。法無有我離我垢故。法無壽命離生死故。法無有人前後際斷故。法常寂然滅諸相故。法離於相無所緣故。法無名字 言語斷故。法無有說離覺觀故。法無形相如虛空故。法無戲論畢竟空故。法無我所離我所故。法無分別離諸識故。法無有比無相待故。法不屬因不在緣故。法同法性 入諸法故。法隨於如無所隨故。法住實際諸邊不動故。法無動搖不依六塵故。法無去來常不住故。法順空隨無相應無作。法離好醜。法無增損。法無生滅。法無所 歸。法過眼耳鼻舌身心。法無高下。法常住不動。法離一切觀行。

唯大目連。法相如是豈可說乎。夫說法者無說無示。其聽法者無聞無得。譬如幻士為幻人說法。當建是意而為說法。當了衆生根有利鈍。善於知見無所罣礙。以大悲心讚於大乘。念報佛恩不斷三寶。然後說法。

維摩詰說是法時。八百居士發阿耨多羅三藐三菩提心。我無此辯。是故不任詣彼問疾。

佛告大迦葉。汝行詣維摩詰問疾。

迦葉白佛言。世尊。我不堪任詣彼問疾。所以者何。憶念我昔於貧里而行乞。時維摩詰來謂我言。唯大迦葉。有慈悲心而不能普。捨豪富從貧乞。

迦葉。住平等法應次行乞食。為不食故應行乞食。為壞和合相故應取摶食。為不受故應受彼食。以空聚想入於聚落。所見色與盲等。所聞聲與響等。所嗅香與風等。所食味不分別。受諸觸如智證。知諸法如幻相無自性無他性。本自不然今則無滅。

迦葉。若能不捨八邪入八解脫。以邪相入正法。以一食施一切。供養諸佛及衆賢聖。然後可食。如是食者非有煩惱非離煩惱。非入定意非起定意。非住世間非住涅槃。其有施者無大福無小福。不為益不為損。是為正入佛道不依聲聞。

迦葉。若如是食為不空食人之施也。

時我世尊。聞說是語得未曾有。即於一切菩薩深起敬心。復作是念。斯有家名辯才智慧乃能如是。其誰不發阿耨多羅三藐三菩提心。我從是來不復勸人以聲聞辟支佛行。是故不任詣彼問疾。

佛告須菩提。汝行詣維摩詰問疾。

須菩提白佛言。世尊。我不堪任詣彼問疾。所以者何。憶念我昔入其舍從乞食。時維摩詰取我缽盛滿飯。謂我言。唯須菩提。若能於食等者諸法亦等。諸法等者於食 亦等。如是行乞乃可取食。若須菩提不斷婬怒癡亦不與俱。不壞於身而隨一相。不滅癡愛起於解脫。以五逆相而得解脫。亦不解不縛。不見四諦非不見諦。非得果非 不得果。非凡夫非離凡夫法。非聖人非不聖人。雖成就一切法而離諸法相。乃可取食。若須菩提。不見佛不聞法。彼外道六師。富蘭那迦葉。末伽梨拘賒梨子。刪闍 夜毘羅胝子。阿耆多翅舍欽婆羅。迦羅鳩馱迦旃延。尼犍陀若提子等是汝之師因其出家。彼師所墮汝亦隨墮。乃可取食。

若須菩提入諸邪見不到彼岸。住於八難不得無難。同於煩惱離清淨法。汝得無諍三昧。一切衆生亦得是定。其施汝者不名福田。供養汝者墮三惡道。為與衆魔共一手 作諸勞侶。汝與衆魔及諸塵勞等無有異。於一切衆生而有怨心。謗諸佛毀於法不入衆數。終不得滅度。汝若如是乃可取食。

時我世尊。聞此茫然不識是何言。不知以何答。便置缽欲出其舍。

維摩詰言。唯須菩提取缽勿懼。於意云何。如來所作化人。若以是事詰。寧有懼不。

我言。不也。

維摩詰言。一切諸法如幻化相。汝今不應有所懼也。所以者何。一切言說不離是相。至於智者不著文字故無所懼。何以故。文字性離。無有文字。是則解脫。解脫相者則諸法也。

維摩詰說是法時。二百天子得法眼淨。故我不任詣彼問疾。

佛告富樓那彌多羅尼子。汝行詣維摩詰問疾。

富樓那白佛言。世尊。我不堪任詣彼問疾。所以者何。憶念我昔於大林中在一樹下。為諸新學比丘說法。時維摩詰來謂我言。唯富樓那。先當入定觀此人心然後說 法。無以穢食置於寶器。當知是比丘心之所念。無以瑠璃同彼水精。汝不能知衆生根源。無得發起以小乘法。彼自無瘡勿傷之也。欲行大道莫示小徑。無以大海内於 牛跡。無以日光等彼螢火。

富樓那。此比丘久發大乘心。中忘此意。如何以小乘法而教導之。我觀小乘智慧微淺。猶如盲人不能分別一切衆生根之利鈍。

時維摩詰即入三昧。令此比丘自識宿命。曾於五百佛所植衆德本。迴向阿耨多羅三藐三菩提。即時豁然還得本心。於是諸比丘稽首禮維摩詰足。

時維摩詰因為說法。於阿耨多羅三藐三菩提不復退轉。我念聲聞不觀人根不應說法。是故不任詣彼問疾。

佛告摩訶迦旃延。汝行詣維摩詰問疾。

迦旃延白佛言。世尊。我不堪任詣彼問疾。所以者何。憶念昔者佛為諸比丘略說法要。我即於後敷演其義。謂無常義苦義空義無我義寂滅義。時維摩詰來謂我言。唯迦旃延。無以生滅心行說實相法。

迦旃延。諸法畢竟不生不滅。是無常義。五受陰洞達空無所起。是苦義。諸法究竟無所有。是空義。於我無我而不二。是無我義。法本不然今則無滅。是寂滅義。

說是法時彼諸比丘心得解脫。故我不任詣彼問疾。

佛告阿那律。汝行詣維摩詰問疾。

阿那律白佛言。世尊。我不堪任詣彼問疾。所以者何。憶念我昔於一處經行。時有梵王名曰嚴淨。與萬梵俱放淨光明來詣我所。稽首作禮問我言。幾何阿那律天眼所見。

我即答言。仁者。吾見此釋迦牟尼佛土三千大千世界如觀掌中菴摩勒菓。

時維摩詰來謂我言。唯阿那律。天眼所見為作相耶。無作相耶。假使作相則與外道五通等。若無作相即是無為不應有見。

世尊。我時默然。彼諸梵聞其言。得未曾有。即為作禮而問曰。世孰有真天眼者。

維摩詰言。有佛世尊得真天眼。常在三昧悉見諸佛國不以二相。

於是嚴淨梵王及其眷屬五百梵天皆發阿耨多羅三藐三菩提心。禮維摩詰足已忽然不現。故我不任詣彼問疾。

佛告優波離。汝行詣維摩詰問疾。

優波離白佛言。世尊。我不堪任詣彼問疾。所以者何。憶念昔者有二比丘。犯律行以為恥。不敢問佛。來問我言。唯優波離。我等犯律誠以為恥。不敢問佛。願解疑悔得免斯咎。我即為其如法解說。

時維摩詰來謂我言。唯優波離。無重增此二比丘罪。當直除滅勿擾其心。所以者何。彼罪性不在內不在外不在中間。如佛所說。心垢故衆生垢。心淨故衆生淨。心亦不在內不在外不在中間。如其心然。罪垢亦然。諸法亦然。不出於如。

如優波離。以心相得解脫時。寧有垢不。

我言。不也。

維摩詰言。一切衆生心相無垢亦復如是。

唯優波離。妄想是垢無妄想是淨。顛倒是垢。無顛倒是淨。取我是垢。不取我是淨。

優波離。一切法生滅不住。如幻如電諸法不相待。乃至一念不住。諸法皆妄見。如夢如燄如水中月如鏡中像以妄想生。其知此者是名奉律。其知此者是名善解。

於是二比丘言。上智哉。是優波離所不能及。持律之上而不能說。

我答言。自捨如來未有聲聞及菩薩能制其樂說之辯。其智慧明達為若此也。

時二比丘疑悔即除。發阿耨多羅三藐三菩提心。作是願言。令一切衆生皆得是辯。

故我不任詣彼問疾。

佛告羅睺羅。汝行詣維摩詰問疾。

羅睺羅白佛言。世尊。我不堪任詣彼問疾。所以者何。憶念昔時毘耶離諸長者子。來詣我所稽首作禮問我言。唯羅睺羅。汝佛之子。捨轉輪王位出家為道。其出家者有何等利。

我即如法為說出家功德之利。

時維摩詰來謂我言。唯羅睺羅。不應說出家功德之利。所以者何。無利無功德是為出家。有為法者可說有利有功德。夫出家者為無為法。無為法中無利無功德。

羅睺羅。出家者無彼無此亦無中間。離六十二見處於涅槃。智者所受聖所行處。降伏衆魔度五道淨五眼得五力立五根。不惱於彼。離衆雜惡摧諸外道。超越假名出淤泥無繫著無我所無所受無擾亂內懷喜護彼意。隨禪定離衆過。若能如是是真出家。

於是維摩詰語諸長者子。汝等於正法中宜共出家。所以者何。佛世難值。

諸長者子言。居士。我聞佛言。父母不聽不得出家。

維摩詰言。然汝等便發阿耨多羅三藐三菩提心是即出家。是即具足。

爾時三十二長者子。皆發阿耨多羅三藐三菩提心。故我不任詣彼問疾。

佛告阿難。汝行詣維摩詰問疾。

阿難白佛言。世尊。我不堪任詣彼問疾。所以者何。憶念昔時世尊身小有疾當用牛乳。我即持缽詣大婆羅門家門下立。時維摩詰來謂我言。唯阿難。何為晨朝持缽住此。

我言。居士。世尊身小有疾當用牛乳。故來至此。

維摩詰言。止止阿難。莫作是語。如來身者金剛之體。諸惡已斷衆善普會。當有何疾。當有何惱。

默往阿難。勿謗如來。莫使異人聞此麤言。無令大威德諸天及他方淨土諸來菩薩得聞斯語。

阿難。轉輪聖王以少福故尚得無病。豈況如來無量福會普勝者哉。

行矣阿難。勿使我等受斯恥也。外道梵志若聞此語當作是念。何名為師。自疾不能救而能救諸疾人。可密速去勿使人聞。

當知阿難。諸如來身即是法身非思欲身。佛為世尊過於三界。佛身無漏諸漏已盡。佛身無為不墮諸數。如此之身當有何疾。

時我世尊實懷慚愧。得無近佛而謬聽耶。即聞空中聲曰。阿難。如居士言。但為佛出五濁惡世。現行斯法度脫衆生。

行矣阿難。取乳勿慚。

世尊。維摩詰智慧辯才為若此也。是故不任詣彼問疾。

如是五百大弟子。各各向佛說其本緣。稱述維摩詰所言。皆曰不任詣彼問疾。


Đệ Tử Phẩm
Đệ tam

Nhĩ thời, Trưởng giả Duy-ma-cật tự niệm tẩm tật ư sàng: Thế Tôn đại từ! Ninh bất thùy mẫn?
Phật tri kỳ ý, tức cáo Xá-lỵ-phất: Nhữ hành nghệ Duy-ma-cật vấn tật.
Xá-lỵ-phất bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Ngã bất kham nhiệm nghệ bỉ vấn tật. Sở dĩ giả hà? Ức niệm ngã tích, tằng ư lâm trung, yến tọa thọ hạ. Thời, Duy-ma-cật lai, vị ngã ngôn: Duy, Xá-lỵ-phất! Bất tất thị tọa vi yến tọa dã. Phù yến tọa giả, bất ư Tam giới hiện thân ý, thị vi yến tọa. Bất khởi diệt định nhi hiện chư oai nghi, thị vi yến tọa. Bất xả đạo pháp nhi hiện phàm phu sự, thị vi yến tọa. Tâm bất trụ nội, diệc bất tại ngoại, thị vi yến tọa. Ư chư kiến bất động, nhi tu hành tam thập thất phẩm, thị vi yến tọa. Bất đoạn phiền não nhi nhập Niết-bàn, thị vi yến tọa. Nhược năng như thị tọa giả, Phật sở ấn khả.
Thời ngã, Thế Tôn, văn thuyết thị ngữ, mặc nhiên nhi chỉ, bất năng gia báo. Cố ngã bất nhiệm nghệ bỉ vấn tật.
Phật cáo Đại Mục-kiền-liên: Nhữ hành nghệ Duy-ma-cật vấn tật.
Mục-liên bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Ngã bất kham nhiệm nghệ bỉ vấn tật. Sở dĩ giả hà? Ức niệm ngã tích nhập Tỳ-da-ly đại thành. Ư lý hạng trung, vị chư cư sĩ thuyết pháp. Thời, Duy-ma-cật lai, vị ngã ngôn: Duy, Đại Mục-liên! Vị bạch y cư sĩ thuyết pháp, bất đương như nhân giả sở thuyết. Phù thuyết pháp giả, đương như pháp thuyết. Pháp vô chúng sinh, ly chúng sinh cấu cố. Pháp vô thọ mạng, ly sinh tử cố. Pháp vô hữu nhân, tiền hậu tế đoạn cố. Pháp thường tịch nhiên, diệt chư tướng cố. Pháp ly ư tướng, vô sở duyên cố. Pháp vô danh tự, ngôn ngữ đoạn cố. Pháp vô hữu thuyết, ly giác quan cố. Pháp vô hình tướng, như hư không cố. Pháp vô hý luận, tất cánh không cố. Pháp vô ngã sở, ly ngã sở cố. Pháp vô phân biệt, ly chư thức cố. Pháp vô hữu tỷ, vô tương đãi cố. Pháp bất thuộc nhân, bất tại duyên cố. Pháp đồng pháp tánh, nhập chư pháp cố. Pháp tùy ư như, vô sở tùy cố. Pháp trụ thật tế, chư biên bất động cố. Pháp vô động dao, bất y lục trần cố. Pháp vô khứ lai, thường bất trụ cố. Pháp thuận không, tùy vô tướng, ứng vô tác. Pháp ly hảo xú. Pháp vô tăng tổn. Pháp vô sinh diệt. Pháp vô sở quy. Pháp quá nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, tâm. Pháp vô cao hạ. Pháp thường trụ bất động. Pháp ly nhất thiết quan hành.
Duy, Đại Mục-liên! Pháp tướng như thị. Khởi khả thuyết hồ? Phù thuyết pháp giả, vô thuyết, vô thị. Kỳ thính pháp giả, vô văn, vô đắc. Thí như ảo sĩ, vị ảo nhân thuyết pháp. Đương kiến thị ý, nhi vị thuyết pháp. Đương liễu chúng sinh căn hữu lợi độn. Thiện ư tri kiến, vô sở quái ngại. Dĩ đại bi tâm, tán ư Đại thừa. Niệm báo Phật ân, bất đoạn Tam bảo. Nhiên hậu thuyết pháp.
Duy-ma-cật thuyết thị pháp thời, bát bá cư sĩ phát A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề tâm. Ngã vô thử biện. Thị cố bất nhiệm nghệ bỉ vấn tật.
Phật cáo Đại Ca-diếp: Nhữ hành nghệ Duy-ma-cật vấn tật.
Ca-diếp bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Ngã bất kham nhiệm nghệ bỉ vấn tật. Sở dĩ giả hà? Ức niệm ngã tích, ư bần lý nhi hành khất. Thời, Duy-ma-cật lai, vị ngã ngôn: Duy, Đại Ca-diếp! Hữu từ bi tâm, nhi bất năng phổ: xả hào phú, tùng bần khất.
Ca-diếp! Trụ bình đẳng pháp: ưng thứ hành khất thực. Vị bất thực cố, ưng hành khất thực. Vị hoại hòa hiệp tướng cố, ưng thủ đoàn thực. Vị bất thọ cố, ưng thọ bỉ thực. Dĩ không tụ tưởng, nhập ư tụ lạc. Sở kiến sắc dữ manh đẳng. Sở văn thinh dữ hưởng đẳng. Sở khứu hương dữ phong đẳng. Sở thực vị bất phân biệt. Thọ chư xúc như trí chứng. Tri chư pháp như ảo tướng, vô tự tánh, vô tha tánh, bổn tự bất nhiên, kim tắc vô diệt.
Ca-diếp! Nhược năng bất xả bát tà, nhập bát giải thoát, dĩ tà tướng nhập chánh pháp, dĩ nhất thực thí nhất thiết, cúng dường chư Phật cập chúng hiền thánh, nhiên hậu khả thực. Như thị thực giả, phi hữu phiền não, phi ly phiền não, phi nhập định ý, phi khởi định ý, phi trụ thế gian, phi trụ Niết-bàn. Kỳ hữu thí giả, vô đại phước, vô tiểu phước, bất vi ích, bất vi tổn. Thị vi chánh nhập Phật đạo, bất y Thanh văn.
Ca-diếp! Nhược như thị thực, vi bất không thực nhân chi thí dã.
Thời ngã, Thế Tôn, văn thuyết thị ngữ, đắc vị tằng hữu. Tức ư nhất thiết Bồ Tát, thâm khởi kính tâm. Phục tác thị niệm: Tư hữu gia danh, biện tài trí huệ nãi năng như thị. Kỳ thùy bất phát A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề tâm? Ngã tùng thị lai bất phục khuyến nhân dĩ Thanh văn, Bích chi Phật hạnh. Thị cố bất nhiệm nghệ bỉ vấn tật.
Phật cáo Tu-bồ-đề: Nhữ hành nghệ Duy-ma-cật vấn tật.
Tu-bồ-đề bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Ngã bất kham nhiệm nghệ bỉ vấn tật. Sở dĩ giả hà? Ức niệm ngã tích, nhập kỳ xá tùng khất thực. Thời, Duy-ma-cật thủ ngã bát, thành mãn phạn, vị ngã ngôn: Duy, Tu-bồ-đề! Nhược năng ư thực đẳng giả, chư pháp diệc đẳng. Chư pháp đẳng giả, ư thực diệc đẳng. Như thị hành khất, nãi khả thủ thực. Nhược Tu-bồ-đề bất đoạn dâm, nộ, si, diệc bất dữ câu. Bất hoại ư thân, nhi tùy nhất tướng. Bất diệt si ái, khởi ư giải thoát. Dĩ ngũ nghịch tướng nhi đắc giải thoát. Diệc bất giải, bất phược. Bất kiến tứ đế, phi bất kiến đế. Phi đắc quả, phi bất đắc quả. Phi phàm phu, phi ly phàm phu pháp. Phi thánh nhân, phi bất thánh nhân. Tuy thành tựu nhất thiết pháp, nhi ly chư pháp tướng, nãi khả thủ thực. Nhược Tu-bồ-đề bất kiến Phật, bất văn pháp, bỉ ngoại đạo Lục sư: Phú-lan-na Ca-diếp, Mạt-già-lê Câu-xa-lê tử, Xan-xà-dạ Tỳ-la-đê tử, A-kỳ-đa Sí-xá-khâm-bà-la, Ca-la-cưu-đà Ca-chiên-diên, Ni-kiền-đà Nhã-đề tử đẳng thị nhữ chi sư. Nhân kỳ xuất gia, bỉ sư sở đọa, nhữ diệc tùy đọa, nãi khả thủ thực.
Nhược Tu-bồ-đề nhập chư tà kiến, bất đáo bỉ ngạn, trụ ư bát nạn, bất đắc vô nạn, đồng ư phiền não, ly thanh tịnh pháp. Nhữ đắc vô tranh Tam-muội. Nhất thiết chúng sinh diệc đắc thị định. Kỳ thí nhữ giả, bất danh phước điền. Cúng dường nhữ giả, đọa tam ác đạo, vi dữ chúng ma cộng nhất thủ, tác chư lao lữ. Nhữ dữ chúng ma, cập chư trần lao, đẳng vô hữu dị. Ư nhất thiết chúng sinh, nhi hữu oán tâm. Báng chư Phật, hủy ư pháp, bất nhập chúng số, chung bất đắc diệt độ. Nhữ nhược như thị, nãi khả thủ thực.
Thời ngã, Thế Tôn, văn thử mang nhiên, bất thức thị hà ngôn, bất tri dĩ hà đáp. Tiện trí bát, dục xuất kỳ xá.
Duy-ma-cật ngôn: Duy, Tu-bồ-đề! Thủ bát vật cụ. Ư ý vân hà? Như Lai sở tác hóa nhân, nhược dĩ thị sự cật, ninh hữu cụ phủ?
Ngã ngôn: Phất dã.
Duy-ma-cật ngôn: Nhất thiết chư pháp, như ảo hóa tướng. Nhữ kim bất ưng hữu sở cụ giã. Sở dĩ giả hà? Nhất thiết ngôn thuyết bất ly thị tướng. Chí ư trí giả bất trước văn tự, cố vô sở cụ. Hà dĩ cố? Văn tự tánh ly. Vô hữu văn tự, thị tắc giải thoát. Giải thoát tướng giả, tắc chư pháp dã.
Duy-ma-cật thuyết thị pháp thời, nhị bá thiên tử đắc pháp nhãn tịnh. Cố ngã bất nhiệm nghệ bỉ vấn tật.
Phật cáo Phú-lâu-na Di-đa-la-ni tử: Nhữ hành nghệ Duy-ma-cật vấn tật.
Phú-lâu-na bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Ngã bất kham nhiệm nghệ bỉ vấn tật. Sở dĩ giả hà? Ức niệm ngã tích, ư đại lâm trung, tại nhất thọ hạ, vị chư tân học tỳ-kheo thuyết pháp. Thời, Duy-ma-cật lai, vị ngã ngôn: Duy, Phú-lâu-na! Tiên đương nhập định, quán thử nhân tâm, nhiên hậu thuyết pháp. Vô dĩ uế thực, trí ư bảo khí. Đương tri thị tỳ-kheo tâm chi sở niệm. Vô dĩ lưu ly đồng bỉ thủy tinh. Nhữ bất năng tri chúng sinh căn nguyên, vô đắc phát khởiTiểu thừa pháp. Bỉ tự vô sang, vật thương chi dã. Dục hành đại đạo, mạc thị tiểu kinh. Vô dĩ đại hải nạp ư ngưu tích. Vô dĩ nhật quang đẳng bỉ huỳnh hỏa.
Phú-lâu-na! Thử tỳ-kheo cửu phát Đại thừa tâm, trung vong thử ý. Như hà dĩ Tiểu thừa pháp nhi giáo đạo chi? Ngã quan Tiểu thừa trí huệ vi thiển: Du như manh nhân, bất năng phân biệt nhất thiết chúng sinh căn chi lợi độn.
Thời, Duy-ma-cật tức nhập Tam-muội, linh thử tỳ-kheo tự thức túc mạng, tằng ư ngũ bá Phật sở thực chúng đức bổn, hồi hướng A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Tức thời hoát nhiên, hoàn đắc bổn tâm. Ư thị, chư tỳ-kheo khể thủ lễ Duy-ma-cật túc.
Thời, Duy-ma-cật nhân vị thuyết pháp, ư A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, bất phục thối chuyển. Ngã niệm Thanh văn bất quán nhân căn, bất ưng thuyết pháp. Thị cố bất nhiệm nghệ bỉ vấn tật.
Phật cáo Ma-ha Ca-chiên-diên: Nhữ hành nghệ Duy-ma-cật vấn tật.
Ca-chiên-diên bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Ngã bất kham nhiệm nghệ bỉ vấn tật. Sở dĩ giả hà? Ức niệm tích giả, Phật vị chư tỳ-kheo lược thuyết pháp yếu. Ngã tức ư hậu, phu diễn kỳ nghĩa. Vị vô thường nghĩa, khổ nghĩa, không nghĩa, vô ngã nghĩa, tịch diệt nghĩa. Thời, Duy-ma-cật lai, vị ngã ngôn: Duy, Ca-chiên-diên! Vô dĩ sinh diệt tâm hạnh, thuyết thật tướng pháp.
Ca-chiên-diên! Chư pháp tất cánh bất sinh, bất diệt, thị vô thường nghĩa. Ngũ thọ ấm đổng đạt, không vô sở khởi: thị khổ nghĩa. Chư pháp cứu cánh vô sở hữu: thị không nghĩa. Ư ngã, vô ngã nhi bất nhị: thị vô ngã nghĩa. Pháp bổn bất nhiên, kim tắc vô diệt, thị tịch diệt nghĩa.
Thuyết thị pháp thời, bỉ chư tỳ-kheo tâm đắc giải thoát. Cố ngã bất nhiệm nghệ bỉ vấn tật.
Phật cáo A-na-luật: Nhữ hành nghệ Duy-ma-cật vấn tật.
A-na-luật bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Ngã bất kham nhiệm nghệ bỉ vấn tật. Sở dĩ giả hà? Ức niệm ngã tích, ư nhất xứ kinh hành. Thời hữu Phạm vương, danh viết Nghiêm Tịnh, dữ vạn Phạm câu phóng tịnh quang minh, lai nghệ ngã sở, khể thủ tác lễ, vấn ngã ngôn: Kỷ hà A-na-luật thiên nhãn sở kiến?
Ngã tức đáp ngôn: Nhân giả! Ngô kiến thử Thích-ca Mâu-ni Phật độ, tam thiên đại thiên thế giới, như quan chưởng trung am-ma-lặc quả.
Thời, Duy-ma-cật lai, vị ngã ngôn: Duy, A-na-luật! Thiên nhãn sở kiến, vi tác tướng da? Vô tác tướng da? Giả sử tác tướng, tắc dữ ngoại đạo ngũ thông đẳng. Nhược vô tác tướng, tức thị vô vi, bất ưng hữu kiến.
Thế Tôn! Ngã thời mặc nhiên. Bỉ chư Phạm văn kỳ ngôn, đắc vị tằng hữu. Tức vị tác lễ, nhi vấn viết: Thế thục hữu chân thiên nhãn giả?
Duy-ma-cật ngôn: Hữu Phật Thế Tôn đắc chân thiên nhãn. Thường tại Tam-muội, tất kiến chư Phật quốc, bất dĩ nhị tướng.
Ư thị, Nghiêm Tịnh Phạm vương cập kỳ quyến thuộc ngũ bá Phạm thiên giai phát A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề tâm. Lễ Duy-ma-cật túc dĩ, hốt nhiên bất hiện. Cố ngã bất nhiệm nghệ bỉ vấn tật.
Phật cáo Ưu-ba-ly: Nhữ hành nghệ Duy-ma-cật vấn tật.
Ưu-ba-ly bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Ngã bất kham nhiệm nghệ bỉ vấn tật. Sở dĩ giả hà? Ức niệm tích giả, hữu nhị tỳ-kheo phạm luật hạnh. Dĩ vi sỉ, bất cảm vấn Phật, lai vấn ngã ngôn: Duy, Ưu-ba-ly! Ngã đẳng phạm luật, thành dĩ vi sỉ, bất cảm vấn Phật. Nguyện giải nghi hối, đắc miễn tư cữu. Ngã tức vị kỳ như pháp giải thuyết.
Thời, Duy-ma-cật lai, vị ngã ngôn: Duy, Ưu-ba-ly! Vô trọng tăng thử nhị tỳ-kheo tội, đương trực trừ diệt, vật nhiễu kỳ tâm. Sở dĩ giả hà? Bỉ tội tánh bất tại nội, bất tại ngoại, bất tại trung gian. Như Phật sở thuyết: tâm cấu, cố chúng sinh cấu, tâm tịnh, cố chúng sinh tịnh. Tâm diệc bất tại nội, bất tại ngoại, bất tại trung gian. Như kỳ tâm nhiên, tội cấu diệc nhiên, chư pháp diệc nhiên, bất xuất ư như.
Như Ưu-ba-ly dĩ tâm tướng đắc giải thoát thời, ninh hữu cấu phủ?
Ngã ngôn: Phất dã.
Duy-ma-cật ngôn: Nhất thiết chúng sinh tâm tướng vô cấu, diệc phục như thị.
Duy, Ưu-ba-ly! Vọng tưởng thị cấu, vô vọng tưởng thị tịnh. Điên đảo thị cấu, vô điên đảo thị tịnh. Thủ ngã thị cấu, bất thủ ngã thị tịnh.
Ưu-ba-ly! Nhất thiết pháp sinh diệt bất trụ, như ảo, như điện. Chư pháp bất tương đãi, nãi chí nhất niệm bất trụ. Chư pháp giai vọng kiến, như mộng, như diệm, như thủy trung nguyệt, như kính trung tượng, dĩ vọng tưởng sinh. Kỳ tri thử giả, thị danh phụng luật. Kỳ tri thử giả, thị danh thiện giải.
Ư thị, nhị tỳ-kheo ngôn: Thượng trí tai! Thị Ưu-ba-ly sở bất năng cập. Trì luật chi thượng nhi bất năng thuyết.
Ngã đáp ngôn: Tự xả Như Lai, vị hữu Thanh văn cập Bồ Tát năng chế kỳ lạc thuyết chi biện, kỳ trí huệ minh đạt vi nhược thử dã.
Thời, nhị tỳ-kheo nghi hối tức trừ, phát A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề tâm. Tác thị nguyện ngôn: Linh nhất thiết chúng sinh giai đắc thị biện.
Cố ngã bất nhiệm nghệ bỉ vấn tật.
Phật cáo La-hầu-la: Nhữ hành nghệ Duy-ma-cật vấn tật.
La-hầu-la bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Ngã bất kham nhiệm nghệ bỉ vấn tật. Sở dĩ giả hà? Ức niệm tích thời, Tỳ-da-ly chư trưởng giả tử lai nghệ ngã sở, khể thủ tác lễ, vấn ngã ngôn: Duy, La-hầu-la! Nhữ Phật chi tử, xả Chuyển luân vương vị, xuất gia vi đạo. Kỳ xuất gia giả, hữu hà đẳng lợi?
Ngã tức như pháp, vị thuyết xuất gia công đức chi lợi.
Thời Duy-ma-cật lai, vị ngã ngôn: Duy, La-hầu-la! Bất ưng thuyết xuất gia công đức chi lợi. Sở dĩ giả hà? Vô lợi, vô công đức, thị vi xuất gia. Hữu vi pháp giả, khả thuyết hữu lợi, hữu công đức. Phù xuất gia giả, vi vô vi pháp. Vô vi pháp trung, vô lợi, vô công đức.
La-hầu-la! Phù xuất gia giả, vô bỉ, vô thử, diệc vô trung gian. Ly lục thập nhị kiến, xử ư Niết-bàn. Trí giả sở thọ, thánh sở hành xứ. Hàng phục chúng ma, độ ngũ đạo, tịnh ngũ nhãn, đắc ngũ lực, lập ngũ căn, bất não ư bỉ, ly chúng tạp ác, tồi chư ngoại đạo, siêu việt giả danh, xuất ứ nê, vô hệ trước, vô ngã sở, vô sở thọ, vô nhiễu loạn nội hoài, hỷ hộ bỉ ý, tùy thiền định, ly chúng quá. Nhược năng như thị, thị chân xuất gia.
Ư thị, Duy-ma-cật ngứ chư trưởng giả tử: Nhữ đẳng ư chánh pháp trung, nghi cộng xuất gia. Sở dĩ giả hà? Phật thế nan trị.
Chư trưởng giả tử ngôn: Cư sĩ! Ngã văn Phật ngôn: Phụ mẫu bất thính, bất đắc xuất gia.
Duy-ma-cật ngôn: Nhiên, nhữ đẳng tiện phát A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề tâm. Thị tức xuất gia. Thị tức cụ túc.
Nhĩ thời, tam thập nhị trưởng giả tử, giai phát A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề tâm. Cố ngã bất nhiệm nghệ bỉ vấn tật.
Phật cáo A-nan: Nhữ hành nghệ Duy-ma-cật vấn tật.
A-nan bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Ngã bất kham nhiệm nghệ bỉ vấn tật. Sở dĩ giả hà? Ức niệm tích thời, Thế Tôn thân tiểu hữu tật, đương dụng ngưu nhũ. Ngã tức trì bát, nghệ đại bà-la-môn gia môn hạ lập. Thời, Duy-ma-cật lai, vị ngã ngôn: Duy, A-nan! Hà vi thần triêu trì bát trụ thử?
Ngã ngôn: Cư sĩ! Thế Tôn thân tiểu hữu tật, đương dụng ngưu nhũ. Cố lai chí thử.
Duy-ma-cật ngôn: Chỉ chỉ! A-nan! Mạc tác thị ngữ. Như Lai thân giả, kim cang chi thể, chư ác dĩ đoạn, chúng thiện phổ hội. Đương hữu hà tật? Đương hữu hà não?
Mặc vãng A-nan! Vật báng Như Lai. Mạc sử dị nhân văn thử thô ngôn. Vô linh đại oai đức chư thiên cập tha phương tịnh độ chư lai Bồ Tát đắc văn tư ngữ.
A-nan! Chuyển luân Thánh vương dĩ thiểu phước cố, thượng đắc vô bệnh. Khởi huống Như Lai, vô lượng phước hội, phổ thắng giả tai!
Hành hỹ, A-nan! Vật sử ngã đẳng thọ tư sỉ dã. Ngoại đạo Phạm chí, nhược văn thử ngữ, đương tác thị niệm: Hà danh vi sư? Tự tật bất năng cứu, nhi năng cứu chư tật nhân! Khả mật tốc khứ, vật sử nhân văn.
Đương tri, A-nan! Chư Như Lai thân, tức thị Pháp thân, phi tư dục thân. Phật vi Thế Tôn, quá ư Tam giới. Phật thân vô lậu, chư lậu dĩ tận. Phật thân vô vi, bất đọa chư số. Như thử chi thân, đương hữu hà tật?
Thời ngã, Thế Tôn, thật hoài tàm quý, đắc vô cận Phật nhi mậu thính da? Tức văn không trung thanh viết: A-nan! Như cư sĩ ngôn, đản vi Phật xuất ngũ trược ác thế, hiện hành tư pháp, độ thoát chúng sinh.
Hành hỹ, A-nan! Thủ nhũ vật tàm.
Thế Tôn! Duy-ma-cật trí huệ biện tài vi nhược thử dã. Thị cố bất nhiệm nghệ bỉ vấn tật.
Như thị ngũ bá đại đệ tử, các các hướng Phật, thuyết kỳ bổn duyên, xưng thuật Duy-ma-cật sở ngôn. Giai viết: Bất nhiệm nghệ bỉ vấn tật.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11641)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11967)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11119)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11354)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12069)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12566)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10771)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17991)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11731)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9954)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10174)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12355)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15349)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11247)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14334)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12111)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15374)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12008)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12417)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11191)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12091)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10620)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12559)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13177)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14847)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12696)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16582)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19674)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13114)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12675)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12272)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11865)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10909)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13533)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11960)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11850)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11643)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12774)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14525)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12619)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15666)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13630)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12909)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9880)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18021)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11171)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9084)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12183)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13057)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10316)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12201)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15320)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16613)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12223)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11489)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14276)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19710)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14158)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24615)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10695)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant