Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 10: Phật Hương Tích

09 Tháng Mười 201000:00(Xem: 9886)
Chương 10: Phật Hương Tích

Chương 10
PHẬT HƯƠNG TÍCH
[1]

Lúc bấy giờ Xá-lợi-phất tâm niệm, «Sắp đến giờ ăn. Các Bồ tát này sẽ ăn gì đây.» Duy-ma-cật biết ý đó, bèn nói: 

«Phật đã dạy tám pháp giải thoát.[1] Nhân giả đã thọ hành. Há lẫn lộn giữa sự muốn ăn và nghe Pháp sao? Nếu ngài muốn ăn, xin chờ giây lát, sẽ được bữa ăn hiếm có.»

Tức thì, Duy-ma-cật nhập định[2] và dùng thần thông lực chỉ cho hội chúng thấy ở phương trên, cách thế giới này vượt qua bốn mươi hai Hằng hà sa số cõi Phật, có một nước tên là Chúng hương,[3] có Phật hiệu Hương Tích[4] nay đang tại thế. Hương thơm của quốc độ này át hẳn mọi hương thơm của chư thiên trong các quốc độ khắp mười phương. Trong quốc độ đó không có tên gọi Thanh-văn và Bích-chi-Phật[5] mà chỉ có chúng đại Bồ tát thanh tịnh nghe Phật giảng Pháp. Ở đó hương thơm tạo ra mọi thứ như lầu các, đất đai, vườn tược và hoa viên khiến chúng tỏa mùi thơm ngát. Còn thực phẩm thì có mùi thơm lan tỏa đến vô lượng thế giới khắp mười phương. Ngay lúc bấy giờ Phật và chư Bồ tát ở đó vừa cùng ngồi lại để thọ thực được dâng cúng bởi những người con của chư thiên thảy đều có tên là Hương Nghiêm,[6] đều đã phát tâm cầu giác ngộ tối thượng. Hết thảy hội chúng đều trông thấy cảnh này.

Duy-ma-cật nói với hội chúng

«Trong chư tôn giả, ai có thể đến đó để xin phẩm thực của đức Thế Tôn?»

Nhưng do oai thần của Văn-thù-sư-lợi nên hết thảy chư Bồ tát đều im lặng. Thấy vậy, Duy-ma-cật nói: 

«Nhân giả, đại chúng này há không thấy hỗ thẹn sao?»[7] 

Văn-thù-sư-lợi đáp lại: «Phật có dạy, không nên khinh thường người chưa từng học.»

Khi ấy, Duy-ma-cật vẫn không rời chồ ngồi, ở ngay trước đại chúng, dùng thần lực tạo ra một vị hóa Bồ tátthân tướng sáng ngời, oai nghiêm thù thắng bao trùm cả chúng hội, rồi nói với vị này: 

«Ông hãy đi lên phương trên, vượt qua bốn mươi hai Hắng hà sa cõi Phật, có quốc độ tên gọi là Chúng hương, có Phật hiệu Hương Tích, cùng với các Bồ tát vừa mới ngồi lại để thọ thực. Ông hãy đến chỗ đó, mang lời tôi mà thưa rằng, đảnh lễ Thế Tôn ở đó, thưa với ngài rằng: ‘Duy-ma-cật cúi đầu lễ dưới chân Thế Tôn, vô vàn tôn kính, và thăm hỏi sức khoẻ Thế Tôn, ít bệnh, ít não, khí lực an ổn chăng? Nguyện xin chút thức ăn dư của Thế Tôn, mang về thế giới Ta-bà[8] để làm Phật sự; để cho những ai hâm mộ Pháp nhỏ được mở rộng sang đường lớn, và cũng để cho cho danh hiệu Như Lai được lan truyền khắp nơi.’»

Sau đó hết thảy hội chúng đều nhìn thấy vị hóa Bồ tát ngay trước đại chúng bay lên phương trên, đến cõi Chúng hương, quỳ lạy dưới chân Phật ở đó, và lại nghe tiếng của hoá Bồ tát ấy nói, ‘Duy-ma-cật cúi đầu lễ dưới chân Thế Tôn, vô vàn tôn kính, và thăm hỏi sức khoẻ Thế Tôn, ít bệnh, ít não, khí lực an ổn chăng? Nguyện xin chút thức ăn dư của Thế Tôn, mang về thế giới Ta-bà để làm Phật sự; để cho những ai hâm mộ Pháp nhỏ[9] được mở rộng sang Đường lớn, và cũng để cho danh hiệu Như Lai được lan truyền khắp nơi.’» 

Chư Bồ tát ở cõi đó trông thấy vị hoá Bồ tát này, tán thán là chưa từng có, tự hỏi không biết Thượng nhân này từ đâu đến? Thế giới Ta-bà ở chỗ nào? Thế nào gọi là những người hâm mộ pháp nhỏ? Các ngài liền hỏi Phật. Phật nói:

«Có một thế giới tên là Ta-bà, nằm ở phương dưới cách đây vô số quốc độ bằng số cát của bốn mươi hai sông Hằng. Ở đó có đức Phật hiệu Thích-ca-mâu-ni hiện đang ở giữa cõi đời xấu xa đầy năm điều uế trược[10] mà phô diễn đạo giáo cho chúng sinh ưa thích pháp nhỏ. Ở đó còn có vị Bồ tát tên là Duy-ma-cật đã an trụ giải thoát bất khả tư nghì đang giảng Pháp cho chư vị Bồ tát. Cho nên ông ấy đã tạo ra một vị hóa sứ giả để tán dương danh xưng và quốc độ này của Ta khiến các Bồ tát kia thêm phần công đức

Chư Bồ tát lại hỏi: 

«Vị đó là ai mà có thể biến hoa như vậy, có đức lực vô úythần túc lớn đến vậy?»

Đức Thế Tôn đáp: 

«Lớn lao thay! Ông ấy thường gởi các hóa sứ giả đến khắp mười phương quốc độ để thi hành Phật sự vì lợi ích của chúng sinh

Nói xong, đức Hương Tích Như lai lấy một cái bát làm bằng các loại hương chứa đầy cơm thơm rồi trao cho vị hoá Bồ tát. Khi ấy, chín triệu Bồ tát ở đó đều lên tiếng nói:

«Chúng con muốn đến thế giới Ta-bà để đảnh lễ Phật Thích-ca, thăm Duy-ma-cật cùng chư vị Bồ tát ở đó.»

Phật Hương Tích dạy: 

«Có thể đi. Nhưng hãy thu lại mùi hương nơi thân của các ông để chúng sinh ở đó không sanh mê hoặc tham đắm. Các ông cũng nên thay đổi hình tướng mình, chớ để cho những người cầu đạo Bồ tátquốc độ đó xấu hổ, tự ty. Các ông cũng chớ có ý nghĩ khinh thường họ mà gây chướng ngại. Vì sao? Vì mười phương quốc độ đều như hư không. Vả lại, hết thảy chư Phật vì muốn giáo hóa người hâm mộ pháp nhỏ nên chưa hoàn toàn hiển bày quốc độ thanh tịnh đó thôi.»

Lúc ấy, vị hóa Bồ tát nhận bát cơm thơm rồi cùng chín triệu Bồ tát kia, nương theo thần lực của Phật và của Duy-ma-cật, biến mất khỏi cõi thế giới ấy, trong phút chốc đều về đến nhà Duy-ma-cật.

Duy-ma-cật dùng thần lực biến hoá nên chín triệu tòa sư tử, trang nghiêm như đã nói trước. Các Bồ tát đều ngồi lên đó. 

Bấy giới hóa Bồ tát trao cho Duy-ma-cật bát cơm thơm mà mùi hương lan tỏa khắp thành Tỳ-da-ly, rồi lan khắp ba nghìn đại thiên thế giới.

Các bà-la-môn, cư sỹ trong thành Tỳ-da-ly ngửi được mùi hương ấy đều thấy thân ý thơ thới, đồng ca ngợi sự hiếm có này. Lúc ấy, vị đứng đầu các trưởng giả tên là Nguyệt Cái[11] liền dẫn tám mươi bốn ngàn người đến nhà Duy-ma-cật. Thấy có rất nhiều Bồ tát ngự trên các tòa sư tử trang nghiêm, họ mừng rỡ, cung kính đảnh lễ chư Bồ tát và các vị đại đệ tử của Phật, rồi đứng sang một bên. Chúng quỷ thầnchư thiên khắp các cõi trời thuộc Dục giớiSắc giới ngửi được mùi hương cũng tìm đến.

Lúc ấy, Duy-ma-cật mới nói với Xá-lợi-phất và các vị Thanh-văn: 

«Các Nhân giả, nay mời các vị dùng món cơm có hương vị cam lộ. Cơm này được xông ướp bằng hương Đại bi của Như Lai. Đừng ăn cơm bằng ý hữu hạn,[12] vì như vậy sẽ khó thể tiêu hóa được.»

Có một vị Thanh-văn nghĩ rằng, «Cơm này ít; mà đại chúng thì đông. Mỗi người đều ăn, làm sao đủ?» Vị hóa Bồ tát liền nói: 

«Đừng lấy đức nhỏ và trí nhỏ của Thanh-văn đo lường phước huệ vô lượng của Như Lai. Nước của bốn đại dương còn có thể cạn, chứ cơm này vô tận. Nếu mọi người[13] đều vo cơm thành viên lớn như núi Tu-di, ăn cho đến một kiếp[14] vẫn chưa hết cơm. Tại sao? Vì đó là thức ăn còn dư của người[15] đã thành tựu công đức của vô tận giới, định, huệ, giải thoátgiải thoát tri kiến; do vậy, không bao giờ cùng tận.”

Bấy giờ, bát cơm này khiến cho cả đại chúng đều no đủ mà vẫn không vơi. Các Bồ tát, Thanh-văn, trời và người, những ai dùng cơm này đều cảm thấy an lạc như chư Bồ tát ở hết thảy quốc độ Lạc trang nghiêm.[16] Từ chân lông họ tỏa ra mùi thơm vi diệu như mùi thơm các loài cây trên cõi Chúng hương.

Bấy giờ Duy-ma-cật hỏi các Bồ tát từ Chúng hương đến: 

«Hương Tích Như lai giảng dạy bằng Pháp gì?»

Họ đáp: 

«Như Lai ở quốc độ chúng tôi không dùng ngôn tự để giảng thuyết mà chỉ dùng các hương thơm khiến cho trời và người có thể thâm nhập luật hành.[17] Mỗi mỗi Bồ tát ngồi dưới những cội cây hương, cảm nhận mùi hương vi diệu của cây mà chứng tam-muội đức tạng.»[18]

Đoạn các Bồ tát lại hỏi Duy-ma-cật: 

«Đức Thế Tôn Thích-ca-mâu-ni Phật giảng Pháp như thế nào?»

Duy-ma-cật đáp: 

«Chúng sinh trên cõi này cang cường, khó chuyển hóa, nên Phật thuyết bằng ngôn ngữ cang cường để điều phục họ. Ngài nói răng, ‘Đây là địa ngục; đây là súc sinh; đây là ngạ quỷ; đây là các nạn xứ;[19] đây là những nơi tái sinh cho kẻ ngu muội;[20] đây là tà hành của thân; đây là quả báo cho tà hành của thân; đây là tà hành của miệng; đây là quả báo cho tà hành của miệng; đây là tà hành của ý; đây là quả báo cho tà hành của ý; đây là sát sinh; đây là quả báo của sát sinh; đây là sự lấy của không được cho; đây là quả báo của sự lấy của không được cho; đây là tà dâm; đây là quả báo của tà dâm; đây là vọng ngữ; đây là quả báo của vọng ngữ; đây là nói hai lưỡi; đây là quả báo của sự nói hai lưỡi; đây là ác khẩu; đây là quả báo của ác khẩu; đây là sự nói lời vô nghĩa; đây là quả báo của sự nói lời vô nghĩa; đây là tham lam; đây là quả báo của sự tham lam; đây là thù hận; đây là quả báo của sự thù hận; đây là tà kiến; đây là quả báo của tà kiến; đây là sự keo kiệt; đây là quả báo của sự keo kiệt; đây là sự huỷ giới; đây là quả báo của sự huỷ giới; đây là sự sân hận; đây là quả báo của sự sân hận; đây là sự lười biếng; đây là quả báo của sự lười biếng; đây là loạn ý; đây là quả báo của sự loạn ý; đây là sự ngu si; đây là quả báo của sự ngu si; đây là kết giới;[21] đây là quả báo của kết giới; đây là trì giới;[22] đây là phạm giới;[23] đây là điều nên làm; đây là điều không nên làm;[24] đây là sự chướng ngại; đây là sự không chướng ngại; đây là đắc tội; đây là không đắc tội; đây là dứt tội; đây là tịnh; đây là cấu uế; đây là hữu lậu; đây là vô lậu; đây là tà đạo; đây là chánh đạo; đây là hữu vi; đây là vô vi; đây là thế gian; đây là niết-bàn. Vì tâm tánh người khó chuyển hóa giống như vượn khỉ nên phải bằng nhiều phương cách giáo hóa để điều phục họ. Cũng như voi ngựa nếu không đánh đau thì không chế ngự được, những người mê muội trong thế gian này chỉ có thể thâm nhập luật bằng tất cả những lời gay gắt

Nghe xong, các Bồ tát đều khen: 

«Thật chưa từng nghe. Đức Thế Tôn Thích-ca-mâu-ni Phật đã ẩn đi vô lượng năng lực tự tại, hoá độ chúng sinh bằng pháp mà người nghe ưa thích. Các Bồ tát ở đây cũng nhẫn nại những khó nhọc, bằng vô lượng đại bi mà sinh nơi cõi Phật này.»

Duy-ma-cật nói: 

«Thật đúng như vậy. Chư Bồ tát ở cõi này có tâm đại bi kiên cố đối với chúng sinh. Việc làm lợi ích hết thảy chúng sinh của họ trong một đời hơn cả những người ở các cõi khác đã làm trong hàng trăm ngàn kiếp. Vì sao vậy? Vì họ đã thực hành mười thiện pháp mà các cõi Tịnh độ khác không có. Mười thiện pháp đó là gì? Đó là: Lấy bố thí đối trị bần cùng. Lấy trì giới đối trị phạm giới. Lấy nhẫn nhục đối trị sân nhuế. Lấy tinh tấn đối trị giải đãi. Lấy thiền định khắc phục loạn ý. Lấy trí tuệ dẹp tan vô minh. Nói pháp trừ nạn độ người khổ trong tám nạn. Dạy pháp Đại thừa cho người còn chấp pháp Tiểu thừa. Lấy thiện căn giúp người vô đức. Thường dùng bốn nhiếp pháp để thành tựu chúng sinh. Đó chính là mười thiện pháp

Chư Bồ tát lại hỏi: 

«Bồ tát thành tựu bao nhiêu pháp để ở trong thế giới này tu hành mà không ung nhọt, tái sanh tịnh độ?»

Duy-ma-cật đáp: 

«Bồ tát thành tựu tám pháp để ở trong thế giới này tu hành mà không ung nhọt, tái sanh tịnh độ. Đó là: Làm lợi ích chúng sinh không cầu báo đáp. Chịu thay chúng sinh hết thảy khổ não, và hồi hướng công đức đã làm cho chúng sinh. Tâm bình đẳng với chúng sinh bình đẳng, khiêm hạ vô ngại. Tôn kính chư Bồ tát như đối với chư Phật.[25] Khi nghe kinh chưa từng nghe cũng không khởi nghi hoặc. Không đối nghịch với pháp của hàng Thanh-văn. Không ganh tị vì người được cúng dường, không tự cao lợi đắc của mình, trái lại ở đó tự chế ngự tâm mình. Thường tự xét kỗi mình,[26] không tranh tụng sở đoản của người, nhất tâm cầu thành tựu mọi công đức. Đó chính là tám pháp

Sau khi Duy-ma-cật và Văn-thù-sư-lợi thuyết các pháp như vậy, hàng trăm ngàn chư thiên đã phát tâm cầu giác ngộ tối thượng, và mười ngàn vị Bồ tát đắc vô sanh pháp nhẫn

 

[1] VCS (T38n1782_p1094a04): «Tiểu thừa tám giải thoat trừ tham dục. Đại thừa tám giải thoát trừ định chướng.»

[2] Nhập tam-muội. VCX: nhập vi diệu tịch định 入微妙寂定.

[3] Chúng hương 眾香. VCX: Nhất thiết diệu hương 一切妙香. 

[4] Hương Tích 香積. VCX: Tối Thượng Hương Đài 最上香臺. 

[5] VCX: không có danh xưng của hai thừa.

[6] Chi Khiêm: Hương Tịnh 香淨.

[7] VCX: Duy-ma-cật nói nói Văn-thù, «Sao ngài không gia hộ đại chúng này, khiến cho phải như vậy?» (để cho đại chúng phải im lặng)

[8] Ta-bà thế giới 娑婆世界. VCX: Kham nhẫn thế giới 堪忍世界. Skt. Saha-loka-dhātu.

[9] Lạc tiểu pháp giả 樂小法者; La-thập: «Biệt bản nói, lạc thiểu chi nhân 樂少之人.»

[10] Ngũ trược ác thế 五濁惡世. Skt. pañca kaṣāyāḥ: āyus-kaṣāyaḥ (mạng trược), dṛṣṭi-kaṣāyaḥ (kiến trược), kleśa-kaṣāyaḥ (phiền não trược), sattva-kaṣāyaḥ (chúng sanh trược), kalpa-kaṣāyaḥ (kiếp trược).

[11] Trưởng giả chủ Nguyệt Cái 長者主月蓋. La-thập: «Nước này không có Vua. Chỉ có 500 cư sỹ cùng trị nước.» Theo tài liệu Pali, bộ tộc Licchavī, mà thủ phủ là Vesāli (Tỳ-da-ly), tổ chức chính quyền của họ theo chế độ Cộng hoà thị tộc. Các thủ lĩnh của họ đều được gọi là rājā (vương). VCX: Ly-chiêm-tỳ vương Nguyệt Cái 離呫毘王月蓋 .

[12] Hạn ý 限意 . VCX: thiểu phần hạ liệt tâm hành 少分下劣心行 , tâm tư thấp kém hạn hẹp.

[13] VCX: «Nếu hết thảy hữu tình trong vô lượng đại thiên thế giới

[14] VCX: «Một kiếp hoặc một trăm kiếp.»

[15] VCX: «Thức ăn còn dư của Như lai, xuất sinh từ vô tận giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến

[16] Lạc trang nghiêm quốc 樂莊嚴國. Skt. Sukhāvati-vyūha, tức Thế giới Cực lạc. VCS (T38n1782_p1096a27): “Đây không chỉ riêng thế giới Cực lạcTây phương, mà chỉ tất cả thế giới an lạc trong mười phương.”

[17] Đắc nhập luật hành 得入律行 . VCX: giai tất điều phục 皆悉調伏, thảy đều được chế ngự .

[18] Nhất thiết đức tạng tam muội 一切德藏三昧. VCX: Nhất thiết đức trang nghiêm định 一切德莊嚴定.Skt. sarvaguṇavyūha-samādhi. Chi Khiêm: Nhất thiết hương đức định 一切香德定.

[19] Nạn xứ 難處. VCX: Vô hà sanh 無暇生. Đây chỉ 8 trường hợp không sinh gạp thời có Phật, không thể tu tập phạm hạnh.

[20] VCX: đây là căn khuyết (khuyết tật).

[21] VCX: những điều sở học và vi phạm sở học.

[22] VCX: trì biệt giải thoát.

[23] VCX: phạm biệt giải thoát.

[24] Có nhảy sót trong bản La-thập; VCX: «Đây là du già; đây là phi du già; đây là sự vĩnh viễn đoạn trừ; đây là phi vĩnh viễn đoạn trừ.»

[25] VCX: «Tự chế ngự tâm kiêu mạn, kính trọng chúng sinh như kính trọng Phật.»

[26] VCX: điều 7: «Bồ tát chế ngự tự tâm, thường xét lỗi mình, không chê bai vi phạm của người.» Điều 8: «Bồ tát luôn luôn không buông lung ở trong pháp thiện; thường vui thú tầm cầu tinh tấn tu hành pháp Bồ đề phần
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1319)
Kinh này nói về cái chết, vô thường, mất mát… Kinh này không nói về vô ngã, nhưng nói rằng phải xa lìa “cái của tôi,”
(Xem: 1088)
Bài kinh Kevaṭṭa-Sutta là một bài kinh dài giảng cho một người thế tục trẻ tuổi tên là Kevaṭṭa khi người này đến xin Đức Phật chỉ định ...
(Xem: 1376)
Phật từ tướng bạch hào Phóng quang khắp thế giới Hội thượng Phật Bồ Tát Tán thán Phật Tỳ Lô
(Xem: 1757)
Một thời, Thế Tôn trú ở Sāvatthī, tại Jetavana, khu vườn của ông Anāthapiṇḍika. Lúc bấy giờ, Tôn giả Girimānanda bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh.
(Xem: 1861)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc già phạm ở thành Vương xá, trong đỉnh Thứu phong, cùng chúng đại tỳ kheo một ngàn hai trăm năm mươi vị đều đến tụ tập.
(Xem: 2149)
Tôi nghe như vầy: Một thời Đức Phật ở tại tịnh xá Cấp cô độc, vườn Kỳ-đà, gần thành Xá-vệ.
(Xem: 2129)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến. Chỉ có pháp hiện tại, Tuệ quán chính ở đây,
(Xem: 3811)
Thiền quán về Duyên khởi Tính không và giai đoạn hậu thiền với mục đích làm tăng trưởng những phẩm hạnh cao quý.
(Xem: 9277)
Nghi Lễ Hàng Ngày NS Thích Nữ Giới Hương biên soạn
(Xem: 30506)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 4558)
Tôi nghe như vầy. Một thời Đức Phật ở chùa Kỳ Viên thuộc thành Xá Vệ do Cấp Cô Độc phát tâm hiến cúng.
(Xem: 12331)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11690)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12965)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 9914)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 10838)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10598)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10789)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 16375)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 7199)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 5129)
Nói kinh Pháp cú Bắc truyền, được kết tập bằng tiếng Phạn, là để phân biệt với kinh Pháp cú Nam truyền, được kết tập bằng tiếng Pāli.
(Xem: 16611)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13941)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16678)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12217)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 16442)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14433)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16269)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12768)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12163)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11868)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15764)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 14100)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12090)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 15065)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 13203)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14630)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20826)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13316)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 11030)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 14455)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20504)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 14112)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 14828)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 12107)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15348)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11147)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10599)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12526)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 14381)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 16937)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11636)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 11407)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12113)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52323)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15539)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 14026)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11489)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13238)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12845)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant