Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Veranjaka-Sutta (và Kinh Nakulapita-Sutta)

13 Tháng Mười Một 201100:00(Xem: 28696)
Kinh Veranjaka-Sutta (và Kinh Nakulapita-Sutta)

KINH VERANJAKA - SUTTA
(và KINH NAKULAPITA – SUTTA)

Hoang Phong

 Veranja là một địa danh, vào thời kỳ của Đức Phật thì có thể đấy là tên của một thôn ấp hay một ngôi làng thế nhưng ngày nay thì địa danh này không còn nữa. Nhà sư Tích Lan Môhan Wijayaratna gọi kinh Veranjaka-Sutta"Kinh về các nam Thiên Nhân và các nữ Thiên Nhân". Kinh này được ghi chép trong Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttara Nikaya, quyển III, 57-59, ấn bản PTS, 1885-1910). Sở dĩ phải trình bày dài dòng như trên đây là vì có một bản kinh khác cũng mang tên là kinh Veranjaka-Sutta, thế nhưng dài hơn và được xếp vào Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikaya, tập I, kinh số 42), và đã được Hòa Thượng Thích Minh Châu Việt dịch trong Đại Tạng Kinh Việt Nam (Kinh Trung Bộ, người đọc có thể xem kinh này trên các trang web thuvienhoasen, quangduc...). Rất có thể là cả hai bản kinh trên đây đã được Đức Phật thuyết giảng chung trong dịp Ngài tiếp xúc với các vị "chủ gia đình" lưu ngụ tại Veranja, thế nhưng lại cũng có thể là vì hai bản kinh dài ngắn khác nhau nên đã được xếp vào hai Bộ kinh khác nhau chăng?

 Dưới đây là phần chuyển ngữ bản kinh Veranjika Sutta ngắn tức là "Kinh về các nam Thiên Nhân và các nữ Thiên Nhân". Phần chuyển ngữ chủ yếu được dựa vào hai bản dịch: một từ tiếng Pa-li sang tiếng Pháp của Môhan Wijayaratna, (Sermons du Bouddha, nxb Cerf, 1988, tr. 67-69), và một từ bản dịch từ tiếng Pa-li sang tiếng Anh của hai nhà sư Tích Lan là Nyanaponika Thera và Bhikkhu Bodhi thực hiện (Samyutta Nikaya, Part III, Chap. I, Div. I, selected and translated from the Pali by Nyanaponika Thera and Bhikkhu Bodhi).

Veranjaka Sutta

Kinh về các nam Thiên Nhân và các nữ Thiên Nhân
(Anguttara Nikaya, III, 57-59, PTS, 1885-1910)

Tiết 6-1

 "Có một lần Đấng Thế Tôn đang du hành trên con đường cái nối liền giữa Mandura và Veranja, thì vào lúc ấy có một đám đông các vị chủ gia đình cùng với các bà vợ của họ cũng cùng đi trên trục lộ quan trọng này.

 "Đấng Thế Tôn rời khỏi đường cái và ngồi xuống một chiếc ghế được đặt dưới một gốc cây cạnh bên vệ đường. Trông thấy Đấng Thế Tôn ngồi [nghỉ chân], đám người chủ gia đình cùng với các bà vợ bèn tiến đến gần, họ đảnh lễ Đấng Thế Tôn rồi lùi lại và ngồi sang một bên. Khi họ đã an tọa thì Đấng Thế Tôn cất lời với họ như sau:

Tiết 6-2

 "Này các người chủ gia đình, có bốn cách sống chung (trong cuộc sống lứa đôi). Vậy bốn cách sống ấy là gì? [Đấy là] một người đàn ông giống như một xác chết sống với một người đàn bà giống như một xác chết; một người đàn ông giống như một xác chết sống với một người đàn bà giống như một nữ thiên nhân; một người đàn ông giống như một thiên nhân sống với một người đàn bà giống như một xác chết; một người đàn ông giống như một thiên nhân sống với một người đàn bà giống như một nữ thiên nhân.

Tiết 6-3

 "Này các người chủ gia đình, [vậy] một người đàn ông giống như một xác chết sống với một người đàn bà giống như một xác chết là thế nào? Trong trường hợp ấy, này các người chủ gia đình, người chồng là một kẻ sát sinh, hắn phạm vào tội ăn cắp, vướng vào hành vi tính dục bất chính, nói dối, dùng những thức uống làm say sưa khiến bị lầm lẫnxao lãng, hắn là người hung dữ gây ra khổ đau cho người khác, sống với tâm địa ô uế, nhục mạ người tu hành và các vị tu sĩ.

Tiết 6-4

 "Vợ hắn cũng là một kẻ sát sinh, ăn cắp, vướng vào hành vi tính dục bất chính, nói dối, dùng những thức uống làm say sưa khiến bị lầm lẫnxao lãng, vợ hắn là người hung dữ gây ra khổ đau cho người khác, sống với tâm địa ô uế, nhục mạ người tu hành và các vị tu sĩ. Này các người chủ gia đình, đấy chính là một người đàn ông giống như một xác chết sống với một người đàn bà giống như một xác chết.

Tiết 6-5

 "Này các người chủ gia đình, vậy thì một người đàn ông giống như một xác chết sống với một người đàn bà giống như một nữ thiên nhân là thế nào? Trong trường hợp ấy người chồng là một kẻ sát sinh, phạm vào tội ăn cắp, vướng vào những hành vi tính dục bất chính, nói dối, dùng những thức uống làm say sưa khiến bị lầm lẫnxao lãng, hắn là người hung dữ gây ra khổ đau cho người khác, sống với tâm địa ô uế, nhục mạ người tu hành và các vị tu sĩ

Tiết 6-6

 "Trong khi đó thì vợ hắn là người không sát sinh, không phạm vào tội ăn cắp, tránh được những hành vi tính dục bất chính, không nói dối, không dùng những thức uống làm say sưa khiến bị lầm lẫnxao lãng, vợ hắn sống với tâm địa tinh khiết, không gây ra khổ đau cho người khác, không nhục mạ người tu hành và các vị tu sĩ. Này các người chủ gia đình, chính đấy là một người đàn ông giống như một xác chết sống với một người đàn bà giống như một nữ thiên nhân.

Tiết 6-7

 "Này các người chủ gia đình, vậy thì một người đàn ông giống như một thiên nhân sống với một người đàn bà giống như một xác chết là thế nào? Trong trường hợp ấy, người chồng không sát sinh, không phạm vào tội ăn cắp, tránh được những hành vi tính dục bất chính, không nói dối, không dùng những thức uống làm say sưa khiến bị lầm lẫnxao lãng, hắn sống với tâm địa tinh khiết, không gây ra khổ đau cho người khác, không nhục mạ người tu hành và các vị tu sĩ

Tiết 6-8

 "Trong khi đó thì vợ hắn sát sinh, phạm vào tội ăn cắp, phạm vào những hành vi tính dục bất chính, nói dối, dùng nhưng thức uống làm say sưa khiến bị lầm lẫnxao lãng, vợ hắn sống với tâm địa ô uế, gây ra khổ đau cho người khác, nhục mạ người tu hành và các vị tu sĩ. Này các người chủ gia đình, chính đấy là một người đàn ông giống như một thiên nhân sống với một người đàn bà giống như một xác chết.

Tiết 6-9

 "Này các người chủ gia đình, vậy thì một người đàn ông giống như một thiên nhân sống với một người đàn bà giống như một nữ thiên nhân là thế nào? Trong trường hợp ấy, người chồng không sát sinh, không phạm vào tội ăn cắp, tránh được những hành vi tính dục bất chính, không nói dối, không dùng những thức uống làm say sưa khiến bị lầm lẫnxao lãng, hắn sống với tâm địa tinh khiết, không gây ra khổ đau cho người khác, không nhục mạ người tu hành và các vị tu sĩ.

Tiết 6-10

 "Vợ hắn cũng không sát sinh, không phạm vào tội ăn cắp, tránh được nhưng hành vi tính dục bất chính, không nói dối, không dùng những thức uống làm say sưa khiến bị lầm lẫnxao lãng, vợ hắn sống với tâm địa tinh khiết, không gây ra khổ đau cho người khác, không nhục mạ người tu hành và các vị tu sĩ. Này các người chủ gia đình, chính đấy là một người đàn ông giống như một thiên nhân sống với một người đàn bà giống như một nữ thiên nhân.

 "Này các người chủ gia đình, đấy là bốn cách sống chung (trong đời sống lứa đôi)".

 

Vài lời ghi chú

 Trên bình diện tổng quát thì các bài thuyết giảng của Đức Phật hầu hết đều nhằm vào các chủ đề thật khúc chiết và những khái niệm thật căn bản trong giáo lý, chủ yếu là nhắm vào những người xuất gia, tức là những môn đệ của Ngài. Tuy nhiên người ta cũng tìm thấy một số bài giảng dành cho người thế tục, nhằm mục đích giúp họ mang lại hạnh phúc và sự hài hòa trong gia đình, thực thi một cuộc cuộc sống đạo đức, ý thức được bổn phận của họ trong cộng đồng xã hội.

 Theo dòng tiến hóa của xã hội hơn hai ngàn năm trăm năm, tất nhiên các quan niệm về gia đình, đạo đức, phong tục cũng đã biến đổi không ngừng để thích nghi với các nền văn hóa khác nhau và các chủng tộc khác nhau. Thế nhưng trên căn bản thì các quy luật đạo đức quy định cho nếp sống gia đình và cách xử thế giữa con người với nhauĐức Phật chủ trương vẫn còn giữ được giá trị đến ngày nay. Những gì mà Ngài thuyết giảng và chỉ dạy cho những con người thời bấy giờ đôi khi cũng khiến chúng ta phải bàng hoàng vì ngỡ rằng Ngài đang thuyết giảng cho chính chúng ta hôm nay.

 Trong số những bài thuyết giảng ở cấp bậc "thấp" tức mang tính cách đại chúng, dành cho người thế tục, Đức Phật đã nêu lên rất nhiều chủ đề khác nhau liên quan đến gia đình, xã hội, sự giao tiếp giữa con người với nhau. Đôi khi Ngài giảng rất chi tiết và đưa ra nhiều thí dụ rất cụ thể về các cách xử thế cần phải chọn. Trong quyển sách trên đây, Môhan Wijayaratna có trích dẫn một số kinh thuộc vào lãnh vực này, chẳng hạn như Đức Phật dạy một vị chủ nhân phải làm thế nào để tạo ra sự hợp tác tốt đẹp với người làm công (kinh Sigalovada-sutta, Digha Nikaya. III, 180), người chủ gia đình nên làm thế nào để mọi người chung quanh kính mến mình (kinh Vasala-sutta, Suttanipata, v. 116-142), làm thế nào để tránh khỏi cảnh sa sútnghèo đói (kinh Parabhava-sutta, Suttanipata, 91-115), phải dùng đồng tiền như thế nào (kinh Vyaggapajja-sutta, Anguttara Nikaya. IV, 281-282), v.v...

 Tóm lại Đức Phật không những chỉ thuyết giảng những gì thật cao siêu mà Ngài cũng đã mang lại những giải pháp cụ thể giúp người thế tục đạt những khát vọng đôi khi rất đơn sơchân thật của họ, chẳng hạn như trong câu chuyện khá cảm động sau đây ghi lại trong một bản kinh thật ngắn là Nakulapita-Sutta (Anguttara Nikaya. II, 61-62). Đấy là câu chuyện của một đôi vợ chồng đã lớn tuổi thế nhưng vẫn quấn quýt bên nhau, họ hỏi Đức Phật phải làm thế nào để họ còn tiếp tục tìm thấy nhau trong các kiếp sống tương lai. Vì bản kinh không quá dài do đó cũng xin chuyển ngữ toàn bộ như dưới đây để thay cho phần kết luận và cũng để bổ túc thêm cho bản kinh Veranjaka-Sutta đã trình bày trên đây. Phần chuyển ngữ được dựa vào bản dịch từ tiếng Pa-li sang tiếng Anh của Nyanaponika Thera và Bhikkhu Bodhi ("An anthology of Suttas from the Anguttara Nikāya", selected and translated from the Pāli by Nyanaponika Thera and Bhikkhu Bodhi, Edited by Nyanaponika Thera):

 

Nakulapita-Sutta

Kinh "Làm thế nào để gặp lại nhau trong các kiếp sống tương lai"
(Anguttara Nikaya, II, 61-62, PTS, 1885-1910)

 "Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển, nơi hang Bhesakala. Một hôm, vào lúc tinh sương, Đấng Thế Tôn khoác thêm tấm y thượng (áo ấm) lên người, cầm bình bát và đi đến nhà một người chủ gia đình tên là Nakulapita. Khi đến nhà người này thì Đấng Thế Tôn ngồi vào chiếc ghế dành riêng cho Ngài.

 Người chủ gia đình Nakulapita và người nội trợ là Nakulamata (tức là vợ của Nakulapita), cả hai cùng tiến đến gần Đấng Thế Tôn vái chào Ngài rồi ngồi sang một bên. Sau khi an tọa Nakulapita cất lời thưa với Đấng Thế Tôn như sau:

 "Bạch Thế Tôn, từ ngày con đem người nội trợ Nakulamata, lúc ấy còn trẻ dại, về sống nơi căn nhà này với con, con xin thú nhận rằng cho đến hôm nay con chưa bao giờ lừa dối vợ con dù chỉ trong tư tưởng, huống chi bằng hành động thì lại còn khó để mà xảy ra hơn nữa. Bạch Thế Tôn, chúng con hằng mong ước lúc nào cũng nhìn thấy nhau cho đến hết kiếp sống này và sẽ còn nhìn thấy nhau trong kiếp sống tương lai".

 Sau đó lại đến lượt người nội trợ Nakulamata cất lời thưa với Đấng Thế Tôn như sau:

 "Bạch Thế Tôn, từ khi con còn con gái và được mang về căn nhà này để chung sống với người chồng trẻ tuổi của con là Nakulapita, con xin thú nhận rằng cho đến hôm nay con chưa bao giờ lừa dối chồng con dù chỉ trong tư tưởng, huống chi bằng hành động thì lại còn khó để mà xảy ra hơn nữa. Bạch Thế Tôn, chúng con hằng mong ước lúc nào cũng nhìn thấy nhau cho đến hết kiếp sống này và sẽ còn nhìn thấy nhau trong kiếp sống tương lai".

 Đấng Thế Tôn bèn cất lời với họ như sau:

 "Này cả hai gia chủ, nếu cả vợ lẫn chồng ước mong lúc nào cũng nhìn thấy nhau cho đến hết kiếp sống này và còn muốn tiếp tục nhìn thấy nhau trong kiếp sống tương, thì phải có cùng một niềm tin, một lòng rộng lượng như nhau, noi theo một nền đạo đức như nhau, thực hiện được một trí tuệ như nhau; [được như thế] thì cả hai sẽ nhìn thấy nhau cho đến hết kiếp sống này và sẽ còn nhìn thấy nhau trong kiếp sống tương lai".

 Nếu Đức Phật đã từng chứng minh cho chúng ta thấy qua hệ thống giáo lý siêu việtvô cùng sâu sắc các quy luật toàn cầu chi phối sự vận hành của cả vũ trụ này, chẳng hạn quy luật tương liên, hiện tượng vô thườngbản chất trống không của vạn vật..., khiến cho các khoa học gia, triết giahọc giả Tây phương ngày nay phải kinh ngạcthán phục, thì trong kiếp nhân sinh của Ngài, Ngài cũng đã từng ngồi xuống để lắng nghe những con người thật bình dị, đơn sơ và chất phác thổ lộ những ước mơ thật tự nhiênchân thật của họ.

 Tuy những ước mơ ấy phản ảnh bản chất bám víutrói buộc đưa họ quay trở lại với thế giới ta-bà, thế nhưng Đức Phật không làm gì khác hơn được và đã chỉ cách cho họ để có thể tiếp tục nhìn thấy nhau, bằng cách hướng họ vào con đường của đạo hạnh, từ bitrí tuệ. Đấy là con đường giúp cho họ đến một ngày nào đó sẽ tìm thấy sự giải thoát tối hậu. Dù cho con đường ấy có thật dài đi nữa, thế nhưng đấy cũng là những gì có thể giúp họ mang lại một ý nghĩa nào đó cho sự sống này, và nhất là sẽ giúp cho họ không nhìn thấy nhau "giống như hai xác chết" đang sống cạnh nhau trong kiếp nhân sinh này của họ.

Bures-Sur-Yvette, 11.11.11
Hoang Phong
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22952)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 11724)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 19240)
"Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật".
(Xem: 24104)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 13326)
Một thời Đức Thế Tôn ở tại cung điện của chú tể Đại dương, cùng với chúng đại tỳ kheo tám ngàn vị và chúng đại bồ tát ba mươi hai ngàn vị.
(Xem: 13076)
Người giảng: Lão Hòa thượng Tịnh Không; Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ – Viên Đạt cư sĩ; Biên tập: Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 12964)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 215, Hán dịch Pháp Cự; Việt dịch: Thích Bảo An
(Xem: 13096)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 706, Bộ Kinh Tập, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Thiên Ân
(Xem: 14416)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Hoa Nghiêm, Kinh số 0301, Hán dịch: Thật Xoa Nan Ðà; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 105908)
Sám văn gồm có ba cuốn ngày nay là sám văn ấy. Đem nước từ bi tam muội rửa sạch oan nghiệp nhiều kiếp, lấy ý nghĩa đó để mệnh danh Thủy sám... HT Thích Trí Quang
(Xem: 14667)
Trong đời mạt pháp, các đệ tử của ta chỉ đeo đuổi theo bên ngoài, ít có ai quan niệm đến vấn đề Sanh Tử... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 19879)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0665, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 38514)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0642; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Định Huệ
(Xem: 14131)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0639, Hán dịch: Na Liên Ðề Da Xá, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12909)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0628, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích nữ Tịnh Nguyên
(Xem: 13800)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0626, Hán dịch: Chi Lâu Ca Sấm, Việt dịch: Phật tử Phước Thắng
(Xem: 12606)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0619, Hán dịch: Đàm Ma Mật Đa, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 19482)
Từ Bi Thủy Sám Pháp - Trước thuật: Ngộ Đạt Thiền Sư; Dịch Giả: Thích Huyền Dung
(Xem: 27111)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, số 2076, Nguyên tác Đạo Nguyên, Việt dịch: Lý Việt Dũng
(Xem: 13562)
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí-Tịnh, Anh dịch: Quảng Định / Quảng Hiếu hiệu đính, Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 21709)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0615, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 18045)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0614, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 14297)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0600, Hán dịch: Thực Soa Nan Đà, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 16177)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0599, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 15143)
Đại Chánh Tân Tu - Kinh số 685; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Hạnh Cơ
(Xem: 14258)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0232 - Hán dịch: Mạn Ðà La Tiên; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 13233)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0226 - Hán dịch: Đàm Ma Ty, Trúc Phật Niệm; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 14489)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0592 - Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 19827)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0590; Hán dịch: Trí NghiêmBảo Vân ; Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 16776)
Trong Tam tạng Kinh điển tất cả giáo PhápTiểu Thừa hay Đại Thừa, dù tại gia hay xuất gia, Giới Luật luôn là phần trọng yếu nhất... Ngài Hoằng Tán lược sớ - Thích Nữ Trí Hải (tự Như Hải) dịch
(Xem: 21200)
Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm - Hán dịch: Bát Lạt Mật Đế; Việt dịch và chú thích: Hạnh Cơ
(Xem: 14829)
Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận - Dịch giả: TT Thích Viên Giác; Xuất bản năm 1963
(Xem: 39215)
Đêm nay ngày lành Nguyên đán, Giờ này phút thiêng giao thừa, Chúng con : Tuân lệ cổ tục ngày xưa, Mở cửa nghinh xuân tiếp phước.
(Xem: 19440)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0579; Hán dịch: Thất Dịch; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Châu
(Xem: 14766)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0549; Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Thiện
(Xem: 16186)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0475 - Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh, Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Do Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 14750)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0502 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 15257)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0508 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14961)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0466; Hán dịch: Tỳ Ni Đa Lưu Chi; Việt dịch: Thích Nữ Tuệ Thành
(Xem: 15600)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0464; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 39217)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0456; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 14175)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0455; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 24573)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0454; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 14432)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0453; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 19505)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 18073)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 21516)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 19725)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích Nguyên Chơn
(Xem: 17556)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0450; Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14891)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0449; Hán dịch: Ðạt Ma Cấp Ða; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 13933)
Kinh Ưu Bà Tắc, kinh số 128, thuộc bộ Trung A Hàm, tạng Đại Chánh - Hán dịch: Cù Đàm Tăng Già Đề Bà; Việt dịch: cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 13806)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0516; Hán dịch: Thí Hộ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14155)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0762 - Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 21949)
KINH A DI ĐÀ (Văn Vần)... Như Lai Phật Tổ lúc này, Tại vườn Cô Độc rừng cây Kỳ Đà; Cách thành Xá Vệ không xa, Là nơi Phật ở nói ra kinh này... HT Thích Khánh Anh
(Xem: 16774)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0680; Hán dịch: Pháp sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích nữ Tịnh Quang
(Xem: 15269)
Kinh Tám Đề Tài Giác Ngộ Của Các Bậc Đại Nhân (Kinh Bát Đại Nhân Giác) - Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 14589)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0506, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14104)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0777, Hán dịch: Bạch Pháp Tổ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14391)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0367, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Quảng Minh
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant