Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm 21: Thiện Sinh Luân Vương

01 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 7964)
Phẩm 21: Thiện Sinh Luân Vương

KINH KIM QUANG MINH
(KINH ÁNH SÁNG HOÀNG KIM)
Hoà Thượng Thích Trí Quang Dịch Giải 
Bản Hoa Dịch của Ngài Nghĩa Tịnh

 

Phẩm 21: Thiện Sinh Luân Vương 

Vào lúc bấy giờ, đức Thế tôn vì cả đại hội nói về vương pháp chính luận rồi, lại bảo, đại hội các người nên lắng nghe. Như lai lại nói cho các người về một sự phụng hành chánh pháp xưa kia của Như lai. Ngay lúc ấy đức Thế tôn nói những lời chỉnh cú sau đây.

(1) Như lai xưa kia 
làm vị luân vương
bỏ hết đại địa 
và cả đại dương
đem bao trân bảo 
đầy bốn đại lục 
cung kính hiến cúng 
chư vị Như lai
(2) Như lai xưa kia 
trong vô lượng kiếp
cầu pháp thân 
tối cực chân tịnh
nên bao bảo vật 
đều xả bỏ cả, 
cả đến thân mạng 
cũng không tiếc lẫn. 
(3) Trong thì quá khứ 
khó lường đời kiếp, 
có bậc đẳng giác 
danh hiệu Bảo kế; 
sau khi Ngài đã 
nhập vào niết bàn
có một vị vua 
tên là Thiện sinh
(4) Làm bậc luân vương 
cả bốn đại lục, 
ngoại biên đại dương 
đều qui phục cả; 
vua có hoàng thành 
tên Diệu âm nhạc, 
vua thường cư trú 
nơi hoàng thành ấy. 
(5) Đêm mộng thấy nói 
phước trí Như lai
Thấy có pháp sư 
tên là Bảo tích
ngồi nghiêm trên tòa 
tựa vầng thái dương
diễn giảng kinh mầu 
Ánh sáng hoàng kim
(6) Sau khi tỉnh mộng
vua rất hoan hỷ
nỗi hoan hỷ lớn 
tràn khắp cơ thể. 
Đến lúc trời sáng, 
vua ra hoàng cung
đi đến dà lam 
của chư Bí sô. 
(7) Luân vương tôn kính 
cúng thánh chúng rồi, 
liền hỏi các ngài : 
trong thánh chúng này 
có hay không có 
pháp sư Bảo tích 
thành tựu công hạnh 
hóa độ chúng sinh? 
(8) Bấy giờ Bảo tích
vị đại pháp sư, 
cư trú ở trong 
một cái tịnh thất
chánh niệm trì tụng 
kinh mầu Hoàng kim
trang nghiêm bất động
thân tâm vui đẹp. 
(9) Một vị Bí sô 
hướng dẫn luân vương 
đến chỗ cư trú 
của ngài Bảo tích
thấy trong tịnh thất 
ngài ngồi thẳng mình, 
toàn thân đầy cả 
ánh sáng tướng đẹp. 
(10) Bí sô bảo vua: 
đây, ngài Bảo tích
giữ được hành xứ 
sâu xa của Phật, 
đó là bản kinh 
Ánh sáng hoàng kim
kinh vua các kinh, 
tối thượng bậc nhất. 
(11) Luân vương tức thì 
lạy ngài Bảo tích
cung kính chắp tay 
thỉnh cầu ngài: 
Xin bậc mặt đẹp 
tựa như trăng đầy, 
nói cho con nghe 
diệu pháp Hoàng kim
(12) Pháp sư Bảo tích 
nhận lời thỉnh cầu
hứa sẽ nói cho 
bản kinh vua ấy. 
Thế là khắp cả 
đại thiên thế giới
hết thảy chư thiên 
cùng đại hoan hỷ
(13) Vua dùng một nơi 
rộng rãi sạch sẽ, 
tận lực trang hoàng 
trân bảo quí lạ, 
rưới bụi bằng nước 
hương liệu thượng hạng
rải những bông hoa 
màu sắc đa dạng. 
(14) Nơi đặc biệt này 
vua đặt tòa cao, 
trang hoàng bảo cái 
tràng phan gấm lụa; 
xát hương xoa hương 
với đủ mọi cách, 
hơi thơm tỏa ra 
khắp cả mọi nơi
(15) Thiên, long, tô la, 
khẩn na la
ma hô lạc dà 
cùng với dược xoa
nhất là chư thiên 
rải hoa mạn đà
hiến cúng pháp tòa 
rất cao cả ấy. 
(16) Lại có hàng ngàn 
hàng vạn chư thiên 
ưa nghe chánh pháp 
cùng đến tụ tập
Pháp sư bắt đầu 
rời chỗ ngồi cũ, 
họ đã hiến cúng 
bằng những thiên hoa
(17) Bấy giờ Bảo tích
vị đại pháp sư, 
tắm rửa mình mẩy, 
mặc đồ sạch sẽ, 
đi đến đại hội
lại chỗ pháp tòa
chắp tay chân thành 
kính lễ bái. 
(18) Thiên chủ, thiên chúng
cùng với thiên nữ
chung nhau rải xuống 
thiên hoa mạn đà
trăm ngàn thiên nhạc 
khó nghĩ khó tả, 
ở trong không trung 
xuất ra tiếng mầu. 
(19) Bấy giờ Bảo tích
vị đại pháp sư, 
liền lên pháp tòa 
ngồi xếp bằng
tập trung tâm trí 
nghĩ đến mười phương 
trăm ngàn vạn ức 
bậc Đại từ tôn
(20) Nghĩ đến tất cả 
chúng sinh đau khổ
phát sinh ý niệm 
từ bi bình đẳng
Rồi vì chủ mời 
Thiện sinh vương, 
giảng kinh mầu 
Ánh sáng hoàng kim
(21) Vua đã nghe được 
diệu pháp như vậy, 
thành tâm chắp tay 
nói rằng tùy hỷ
Nghe pháp hiếm có, 
Vua trào nước mắt, 
nỗi mừng lớn lao 
tràn ngập thân tâm
(22) Bấy giờ quốc chúa 
luân vương Thiện sinh
vì muốn hiến cúng 
kinh vua Hoàng kim
nên cầm viên ngọc 
như ý ma ni
nguyện rằng hãy vì 
bao loại chúng sinh
(23) Hãy ngay nơi đây, 
đại lục Thiệm bộ
mưa xuống thất bảo
những xâu chuỗi ngọc
để người nghèo thiếu 
đồ dùng tiền của 
hảy đều tùy ý 
thụ hưởng hạnh phúc
(24) Tức thì thất bảo 
đổ xuống khắp nơi, 
sung mãn dân chúng 
cả bốn đại lục, 
cần gì tùy ý
chuỗi ngọc làm đẹp 
y phục ẩm thực 
không thiếu thứ gì. 
(25) Bấy giờ quốc chúa 
luân vương Thiện sinh 
thấy bốn đại lục 
được mưa trân bảo
thì đem hiến cúng 
Bảo kế như lai
và Bí sô tăng 
theo di huấn Ngài. 
(26) Đại hội nên biết 
luân vương Thiện sinh 
ngày nay chính là 
bản thân Như lai
xưa kia đã bỏ 
cả đại địa này, 
cả bao trân bảo 
đầy bốn đại lục. 
(27) Còn ngài Bảo tích
vị đại pháp sư, 
đã thuyết diệu pháp 
cho Thiện sinh vương, 
diễn giảng kinh vua 
cho nhà vua ấy, 
nay ở hướng đông 
thành đức Bất động
(28) Như lai xưa kia 
lắng nghe kinh vua, 
chắp tay nói rằng 
con xin tùy hỷ
quảng thí thất bảo
do những phước ấy 
được kim cương thân 
tối thắng bậc nhất. 
(29) Thân ấy ánh vàng 
trăm phước trang nghiêm
ai nhìn thấy được 
cũng hoan hỷ cả; 
tất cả chúng sinh 
không ai không thích, 
vô số chư thiên 
cũng thích như vậy. 
(30) Như lai trải qua 
chín mươi chín lần 
vô số đời kiếp 
làm vị luân vương
hoặc làm quốc vương 
cho những tiểu quốc 
cũng đến số lượng 
trăm ngàn đời kiếp. 
(31) Trong vô lượng kiếp 
lại làm Đế thích
và cũng đã làm 
bậc Đại phạn vương, 
hiến cúng Thập lực 
đại từ thế tôn 
số lượng đời kiếp 
cũng khó biết hết. 
(32) Như lai xưa kia 
nghe kinh, tùy hỷ
khối phước có được 
số lượng khó biết; 
do khối phước ấy 
được vô thượng giác
được pháp tánh thân 
diệu trí chân thường
Bấy giờ đại hội nghe sự tuyên thuyết như vậy ai cũng than là hiếm có. Ai cũng nguyện phụng trì kinh vua Ánh sáng hoàng kim, quảng bá bất tuyệt.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1317)
Kinh này nói về cái chết, vô thường, mất mát… Kinh này không nói về vô ngã, nhưng nói rằng phải xa lìa “cái của tôi,”
(Xem: 1088)
Bài kinh Kevaṭṭa-Sutta là một bài kinh dài giảng cho một người thế tục trẻ tuổi tên là Kevaṭṭa khi người này đến xin Đức Phật chỉ định ...
(Xem: 1376)
Phật từ tướng bạch hào Phóng quang khắp thế giới Hội thượng Phật Bồ Tát Tán thán Phật Tỳ Lô
(Xem: 1757)
Một thời, Thế Tôn trú ở Sāvatthī, tại Jetavana, khu vườn của ông Anāthapiṇḍika. Lúc bấy giờ, Tôn giả Girimānanda bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh.
(Xem: 1861)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc già phạm ở thành Vương xá, trong đỉnh Thứu phong, cùng chúng đại tỳ kheo một ngàn hai trăm năm mươi vị đều đến tụ tập.
(Xem: 2149)
Tôi nghe như vầy: Một thời Đức Phật ở tại tịnh xá Cấp cô độc, vườn Kỳ-đà, gần thành Xá-vệ.
(Xem: 2128)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến. Chỉ có pháp hiện tại, Tuệ quán chính ở đây,
(Xem: 3810)
Thiền quán về Duyên khởi Tính không và giai đoạn hậu thiền với mục đích làm tăng trưởng những phẩm hạnh cao quý.
(Xem: 9275)
Nghi Lễ Hàng Ngày NS Thích Nữ Giới Hương biên soạn
(Xem: 30502)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 4557)
Tôi nghe như vầy. Một thời Đức Phật ở chùa Kỳ Viên thuộc thành Xá Vệ do Cấp Cô Độc phát tâm hiến cúng.
(Xem: 12329)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11690)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12963)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 9914)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 10837)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10598)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10789)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 16368)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 7198)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 5128)
Nói kinh Pháp cú Bắc truyền, được kết tập bằng tiếng Phạn, là để phân biệt với kinh Pháp cú Nam truyền, được kết tập bằng tiếng Pāli.
(Xem: 16608)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13941)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16674)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12216)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 16440)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14430)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16269)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12765)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12163)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11866)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15762)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 14100)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12089)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 15064)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 13202)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14629)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20824)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13316)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 11029)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 14453)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20503)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 14110)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 14828)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 12107)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15345)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11144)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10598)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12524)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 14380)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 16935)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11635)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 11402)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12111)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52321)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15538)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 14024)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11488)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13236)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12839)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant