Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm 3: Đế Thích

03 Tháng Chín 201607:57(Xem: 4702)
Phẩm 3: Đế Thích

KINH ĐẠI BI

Tam tạng pháp sư Na Liên Đề Da Xá, người nước Thiên-trúc, 
dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, 
vào thời Cao-Tề (Bắc-Tề, 550-577).
Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn,
tại Canada, năm 2016.

 kinh-dai-bi


Phẩm 3

ĐẾ THÍCH

 

Lúc bấy giờ trời Đế Thích cũng đến chỗ Phật ngự. Ngài đảnh lễ đức Phật, rồi đứng sang một bên, bạch rằng:

“Cúi xin đức Thế Tôn chỉ dạy cho con, nên tu hành như thế nào? Bạch đức Thế Tôn! Thuở trước, có lúc bốn vị vua a-tu-la, ngồi xe mặc giáp, đem theo quyến thuộc, đến cõi trời Đao-lợi gây chiến. Lúc bấy giờ thánh giả Mục Kiền Liên còn tại thế.
Trong khi chư thiên đang chiến đấu với chúng a-tu-la, thánh giả Mục Kiền Liên đã đến chỗ của bốn vị vua a-tu-la, dùng giáo pháp để hàng phục; nhờ đó mà hai bên đều được an ổn, không còn nỗi thống khổ chiến tranh; đến cả sự tranh luận về phải trái của hai bên cũng chấm dứt. Vậy mà thánh giả Mục Kiền Liên nay đã diệt độ; và giờ đây đức Thế Tôn lại sắp nhập niết-bàn! Sau này chắc chúng con sẽ lại thường chiến đấu với nhau, nếu vậy, xin đức Thế Tôn ban cho chúng con một lời dạy bảo: Giả sử cuộc chiến đấu lại xảy ra, chúng con nên có kế sách gì đối với chúng a-tu-la?”

Đức Phật bảo trời Đế Thích:

“Ngài Kiều Thi Ca! Xin chớ lo buồn. Người giữ giới thì sở nguyện chắc chắn sẽ thành tựu. Chỉ có người giữ giới thanh tịnh thì sở nguyện mới thành tựu, không giữ giới thì không thành tựu; người tu phạm hạnh thì thành tựu, không tu phạm hạnh thì không; người xa lìa tham dục thì thành tựu, không xa lìa tham dục thì không; người xa lìa sân hận thì thành tựu, không xa lìa sân hận thì không; người xa lìa si mê thì thành tựu, không xa lìa si mê thì không; người có trí tuệ thì thành tựu, không có trí tuệ thì không. Ngài Kiều Thi Ca! Từ nay về sau ngài sẽ được Như Lai gia hộ. Cho đến khi nào chánh pháp của Như Lai chưa bị diệt mất, nếu có cuộc chiến đấu xảy ra giữa chư thiên và chúng a-tu-la, hãy xưng niệm danh hiệu của Như Lai, thì chư thiên sẽ được thắng trận.”

Lúc ấy, bốn vị vua a-tu-la nghe Phật nói chư thiên sẽ được Phật gia hộ, thì vừa tức giận, vừa sợ sệt, liền kéo nhau tới chỗ Phật ngự. Các vị đảnh lễ Phật, rồi đứng sang một bên, bạch rằng:

“Bạch đức Thế Tôn! Vì sao đức Thế Tôn gia hộ cho chư thiên như thế?”

Đức Phật bảo bốn bị vua a-tu-la:

“Này quí vị nhân giả! Xin quí vị đừng lo nghĩ gì cả! Khi nào quí vị có được giờ phút tự tại, đến cung trời Đao-lợi, thì đừng gây cuộc chiến đấu, đừng cạnh tranh, đừng làm điều trái ý nhau. Quí vị hãy cẩn thận, đừng đánh nhau, đừng hủy báng nhau, đừng tranh cãi nhau, đừng làm điều gì trái ý nhau. Hãy đem tâm từ, tâm thương yêu mà đối xử với nhau, thì những gì mong muốn đều được toại ý. Này quí vị nhân giả! Thế gian cái gì có hợp thì phải có tan. Hãy quan sát xem Như Lai ở trong cõi vô thường này, đối với chúng sinh không có oán thù, không cạnh tranh, không trái ý, mà luôn luôn hòa hợp. Như Lai đối với tất cả chúng sinh bằng tâm bình đẳng, ngay cả đối với những người căn lành ít ỏi, tính tình thích đấu tranh cũng vậy. Này quí vị nhân giả! Người khởi tâm làm hại kẻ khác thì chính họ trở lại bị hại. Người hay giết hại thì mạng sống ngắn ngủi. Người thích chiến đấu thì luôn luôn bị giày vò bởi nỗi sợ chết. Này quí vị nhân giả! Nghiệp thiện và nghiệp ác không bao giờ lẫn lộn; vì vậy, từ nay về sau, quí vị hãy sống bằng tâm từ, thân hành động bằng tâm từ, miệng nói năng bằng tâm từ, ý suy nghĩ bằng tâm từ, không đánh nhau, không tranh giành, không hủy báng. Nếu được như vậy, quí vị sẽ luôn luôn được lợi íchan lạc, không có gì để hối hận về sau.”

Đức Phật dạy xong, bốn vị vua a-tu-la bạch rằng:

“Thưa vâng, bạch đức Thế Tôn! Chúng con xin y theo lời dạy của đức Thế Tôntu hành, mà an trú. Từ nay về sau chúng con nguyện bỏ hết chiến cụ và tu tâm từ.”

Lúc bấy giờ trời Đế Thích nghe Phật sắp nhập niết-bàn thì lòng vô cùng buồn khổ, như bị tên bắn vào mình. Ông đau đớn, nước mắt chảy ràn rụa, bạch Phật rằng:

“Bạch đức Thế Tôn! Từ nay cho đến ngày nào chánh pháp còn trụ thế, con nguyện không hưởng năm dục, nguyện tu phạm hạnh, không dùng y phục sang quí. Bạch đức Thế Tôn! Ví như khi vị gia trưởng qua đời, các người nhà nghĩ nhớ công ơn dưỡng dục, lòng rất đau buồn, khóc than chảy nước mắt, nguyện giữ đạo hiếu, báo đáp ơn sâu. Bạch đức Thế Tôn, con cũng như vậy! Từ nay cho đến ngày nào chánh pháp còn trụ thế, con luôn luôn buồn nhớ chảy nước mắt, giữ tròn đạo hiếu, không hưởng năm dục, nguyện tu phạm hạnh, không dùng y phục sang quí. Vì sao vậy? Vì đấng Đạo Sư Vô Thượng đã biệt li rồi, con không còn dịp được trông thấy Ngài nữa, không còn cùng Ngài hội họp nữa!”

Trời Đế Thích bạch lên đức Phật những lời ấy xong, lại đứng yên mà khóc than thảm thiết.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1288)
Kinh này nói về cái chết, vô thường, mất mát… Kinh này không nói về vô ngã, nhưng nói rằng phải xa lìa “cái của tôi,”
(Xem: 1058)
Bài kinh Kevaṭṭa-Sutta là một bài kinh dài giảng cho một người thế tục trẻ tuổi tên là Kevaṭṭa khi người này đến xin Đức Phật chỉ định ...
(Xem: 1351)
Phật từ tướng bạch hào Phóng quang khắp thế giới Hội thượng Phật Bồ Tát Tán thán Phật Tỳ Lô
(Xem: 1733)
Một thời, Thế Tôn trú ở Sāvatthī, tại Jetavana, khu vườn của ông Anāthapiṇḍika. Lúc bấy giờ, Tôn giả Girimānanda bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh.
(Xem: 1817)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc già phạm ở thành Vương xá, trong đỉnh Thứu phong, cùng chúng đại tỳ kheo một ngàn hai trăm năm mươi vị đều đến tụ tập.
(Xem: 2116)
Tôi nghe như vầy: Một thời Đức Phật ở tại tịnh xá Cấp cô độc, vườn Kỳ-đà, gần thành Xá-vệ.
(Xem: 2100)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến. Chỉ có pháp hiện tại, Tuệ quán chính ở đây,
(Xem: 3788)
Thiền quán về Duyên khởi Tính không và giai đoạn hậu thiền với mục đích làm tăng trưởng những phẩm hạnh cao quý.
(Xem: 9226)
Nghi Lễ Hàng Ngày NS Thích Nữ Giới Hương biên soạn
(Xem: 30450)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 4515)
Tôi nghe như vầy. Một thời Đức Phật ở chùa Kỳ Viên thuộc thành Xá Vệ do Cấp Cô Độc phát tâm hiến cúng.
(Xem: 12275)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11629)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12861)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 9863)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 10768)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10541)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10737)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 16310)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 7143)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 5096)
Nói kinh Pháp cú Bắc truyền, được kết tập bằng tiếng Phạn, là để phân biệt với kinh Pháp cú Nam truyền, được kết tập bằng tiếng Pāli.
(Xem: 16555)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13885)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16617)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12148)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 16358)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14374)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16216)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12706)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12101)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11811)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15691)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 14036)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12026)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 15009)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 13148)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14573)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20749)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13250)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10982)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 14384)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20416)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 14043)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 14773)
Thuở đó đức Phật đang ngự tại rừng Ta-la-song-thọ, ở ngoại ô thành Câu-thi-na, thuộc lãnh thổ trị vì của bộ tộc Lực-sĩ.
(Xem: 12071)
Đây là kinh Pháp Quán Phạm Chí. Khung cảnh dựng lên cho kinh cũng giống như khung cảnh của kinh thứ mười một...
(Xem: 15302)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, kinh văn số 1680, luận tập bộ toàn. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11090)
Một thời, đức Bhagavat trú tại Vārāṇasi, nơi xứ Ṛṣipatana, trong rừng Mṛgadāva. Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
(Xem: 10550)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, luận tập bộ toàn, kinh văn 1671; HT Thích Như Điển dịch sang tiếng Việt.
(Xem: 12483)
Kinh Bát Đại Nhân Giác này của Đại Sư An Thế Cao từ nước An Tức sang Trung Quốc vào thời Hậu Hán (năm 132-167 sau công nguyên) soạn dịch.
(Xem: 14321)
Tôi được nghe như vầy: một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngụ tại vườn Nai, ở Isipatana gần Bénarès. Lúc bấy giờ...
(Xem: 16864)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 11594)
Tôi nghe như vầy. Có một lúc, Đức Phật đã sống ở gần Xá Vệ (Savatthi) trong Khu Rừng Kỳ Đà (Jeta Wood) ở tu viện Cấp Cô Độc
(Xem: 11350)
Thưa Tôn giả Gotama, những ngày về trước, những ngày về trước nữa, rất nhiều Sa-môn, Bà-la-môn là du sĩ ngoại đạo ngồi...
(Xem: 12066)
Lời dạy của Đức Phật được kiết tập thành kinh điển và bảo lưu trong nhiều truyền thốngbộ phái Phật giáo.
(Xem: 52167)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 15475)
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, ngôi vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ...
(Xem: 13976)
Nếu thấy thân người nữ Cùng với vẻ diễm kiều Người ngu không biết rõ Vọng sinh ý dâm nhiễm.
(Xem: 11446)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1691. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 13190)
Được nghe Đức Phật đích thân thuyết pháp là một nhân duyên hy hữu, một công đức vô lượng, và may mắn hãn hữu trong đời.
(Xem: 12793)
Lời Đức Phật dạy rất mực thâm sâu. Kinh nào cũng cần nghiền ngẫm, cần tu học với từng lời dạy một.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant