Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tánh Không: Từ Ngữ Phật Giáo, Thường Bị Hiểu Lầm Nhất (song ngữ)

01 Tháng Bảy 201516:35(Xem: 10347)
Tánh Không: Từ Ngữ Phật Giáo, Thường Bị Hiểu Lầm Nhất (song ngữ)
Tánh Không: Từ Ngữ Phật Giáo, Thường Bị Hiểu Lầm Nhất

Nguyễn Văn Tiến

Tánh Không Từ Ngữ Phật Giáo Thường Bị Hiểu Lầm Nhất"Tánh Không" (còn gọi là tính-không) là một từ ngữ liên hệ đến sự giảng dạy chính yếu của mọi ngành Phật giáo, nhưng ý nghĩa thật sự của từ ngữ nầy thường bị hiểu lầm. Khi chúng ta đem Phật Giáo phổ biến đúng đắn vào các nước phương Tây, chúng ta cần phải hiểu rõ ràng về tánh-không, vì nếu có sự hiểu biết sai lầm về ý nghĩa của từ ngữ nầy, chúng ta có thể gây ra sự nhầm lẫn, thậm chí còn có thể gây nguy hại nữa là khác. Bồ Tát Long Thọ (Nagarjuna), vị thầy Phật giáo Ấn Độ vào thế kỷ thứ ba, đã dạy rằng: "Nắm bắt Tánh Không sai lầm, giống như là bắt con rắn độc, mà không đúng cách."  Nói một cách khác đi, là chúng ta sẽ bị rắn độc cắn!

Tánh-không không phải là hoàn toàn không-có-gì; tánh-không cũng không có nghĩa là không-có-gì tồn tại. Cái nhìn sai lầm nêu trên, là cái nhìn hư vô, đi ngược lại với lý lẽ thông thường. Thật ra, tánh-không là mọi sự vật không tồn tại theo cái-nhìn-dính-mắc-của-chính-chúng-ta đã nghĩ chúng là như thế. Trong cuốn sách Đức Đạt Lai Lạt Ma viết về Tâm Kinh, ngài gọi tánh-không là "bản chất thật sự của mọi sự vật và mọi sự kiện", nhưng cũng trong cùng một đoạn văn, ngài cảnh báo chúng ta là "hãy tránh sự ngộ nhận tánh-không là một thực tế tuyệt đối, hoặc là một chân lý độc lập". Nói một cách khác, tánh-không không có nghĩa là thiên đường, hoặc là một cõi tách biệt ra khỏi trần gian nầy, hoặc là một cõi tách biệt khỏi sự khổ đau.

Tâm Kinh nói rằng, "tất cả mọi hiện tượng trong bản-chất-riêng-biệt của chúng là không". Tâm Kinh không nói rằng "tất cả mọi hiện tượng là không". Sự khác biệt nầy rất quan trọng. Bản-chất-riêng-biệt là sự tồn tại độc lập, và riêng biệt. Đoạn văn trên có nghĩa là không có sự vật gì chúng ta thấy, hoặc nghe, đứng riêng một mình; mọi sự vật là một sự biểu hiện giống như là một phong cảnh kết-nối-chặt-chẽ, luôn-thay-đổi, và không-cố-định. Do đó, không có người nào, hoặc không có sự vật nào, có bản tính cố định, vĩnh viễn, không-thay-đổi, mọi sự vật được xem là thực-hiện-cùng-nhau mà Thầy Thích Nhất Hạnh gọi là "sự tương tức". Từ ngữ nầy mang khía cạnh tích cực của tánh-không, bởi vì tánh-không là cách sống và cách hành động của một người có trí tuệ - với ý nghĩa của sự kết nối, của sự từ bi, và của lòng thương yêu. Hãy nghĩ đến Đức Đạt Lai Lạt Ma, và những đức tính của ngài - sự rộng lượng, lòng khiêm tốn, tiếng cười dòn dã, và nụ cười luôn nở trên môi ngài - và chúng ta có thể biết rằng, khi nhìn tánh-không dưới cái-nhìn-lý-trí, chúng ta không nhận ra phẩm chất thực tế vui vẻ trong đời sống tinh thần. Vì thế, tánh-không có hai khía cạnh, một khía cạnh tiêu cực, và một khía cạnh khá tích cực.

Ari Goldfield, một vị Thầy Phật giáo ở Wisdom Sun (Mặt Trời Trí Tuệ) và dịch giả của Stars of Wisdom (Những Ngôi Sao Trí Tuệ), ông đã tóm tắt hai khía cạnh nầy như sau:

Ý nghĩa thứ nhất của tánh-không được gọi là "tánh-không về bản chất", có nghĩa là các hiện tượng [mà chúng ta kinh nghiệm] không có bản chất cố-định, và riêng-biệt. Ý nghĩa thứ hai của tánh-không là "tánh-không trong bối cảnh của Phật Tánh", xem tánh-không có phẩm chất của tâm tỉnh-thức thí dụ như là sự trí tuệ, sự hạnh phúc, lòng từ bi, sự trong sáng, và lòng can đảm. Do đó, trên thực tế, cuối cùng tánh-không chính là sự kết hợp của cả hai ý nghĩa nói trên.

Hãy suy nghĩ về những điều tôi đã nói đến ở trên, và tôi mong muốn nói thêm về ba điểm nổi bật đã tạo ra sự hiểu lầm về tánh-không: ý nghĩa về tình cảm, ý nghĩa về đạo đức, và ý nghĩa về thiền định.

Ý NGHĨA VỀ TÌNH CẢM

[Trong Anh Ngữ, từ ngữ Emptiness, dưới cái nhìn Phật-Giáo có nghĩa là tánh-không, dưới cái nhìn không-Phật-Giáo có nghĩa là sự-trống-vắng]. Khi chúng ta nói "Tôi cảm thấy trống vắng", chúng ta nói về cảm giác buồn bã, hoặc chán nản. Nói về cảm xúc, "sự trống vắng" không phải là một từ ngữ hạnh phúc trong Anh Ngữ [cũng như trong Việt Ngữ], và dù cho chúng ta tự nhắc nhở chúng ta rất nhiều lần, rằng tánh-không trong Phật Giáo không có nghĩa là sự cô đơn, hoặc sự chia ly, và sự tách biệt, nhưng ảnh hưởng của sự cảm xúc nầy vẫn còn đó. Có nhiều lần, tôi đã đi tìm một từ ngữ khác để thay thế cho từ ngữ tiếng Phạn "sunyata" - thí dụ như tôi thử dùng những từ ngữ như "sự hoàn toàn", hoặc "sự trọn vẹn", hoặc "sự rộng lớn", hoặc "sự kết nối", hoặc "sự không giới hạn" - nhưng giống như Ari Goldfield đã nói, "tánh-không" (emptiness) là từ ngữ dịch chính xác nhất. "Tánh-không" cũng là từ ngữ mà Thầy Shunryu Suzuki của tôi đã dùng, tuy nhiên, Thầy cộng thêm vào lời giải thích. Một lần kia, Thầy nói về tánh-không như sau, "Tánh-không không có nghĩa là sự trống rỗng. Có thêm một cái-gì-đó, và cái-gì-đó là cái mà luôn luôn chuẩn bị để có một-hình-thức đặc biệt". Một lần khác, khi Thầy nhận định về phẩm chất tình cảm của tánh-không, Thầy nói rằng, "Tánh-không giống như là chúng ta đang được nằm trong lòng mẹ, rồi chờ mẹ chăm sóc."

Ý NGHĨA VỀ ĐẠO ĐỨC

Một số sinh viên Phật Giáo đã tha thứ, hoặc hợp-lý-hóa hành vi xấu xa của thầy giáo họ bằng cách khẳng định rằng, thầy giáo họ đã có sự hiểu biết về tánh-không, nên thầy giáo được miễn trừ những quy luật thông thường về đạo đức. Một sinh viên cho biết, "Roshi sống trong sự tuyệt đối, cho nên hành vi của ông không thể được đánh giá theo các tiêu chuẩn thông thường". Trong khi sự thật là thầy giáo Phật giáo đôi khi sử dụng phương pháp bất thường để làm tỉnh giác các sinh viên của họ, nhưng động lực của họ phải đến từ lòng từ bi, chứ không phải lòng ích kỷ. Tu sĩ hoặc thầy giáo Phật Giáohành vi không gây hại thì được chấp nhận, nhưng nếu làm ngược lại thì không thể chấp nhận được.

Ý NGHĨA VỀ THIỀN ĐỊNH

Một số sinh viên Phật Giáo nghĩ rằng trạng thái thiền định mà không-có-ý-nghĩ hoặc không-nhận-thấy-sự-hoạt-động là một thành tích của tánh-không. Thật ra, một trạng thái như thế cũng đã được mô tả rõ ràng, trong các văn bản hành thiền Phật Giáo, và trạng thái nầy được xem giống như là những trạng thái khác - chỉ là sự tạm thời và cuối cùng không có ích lợi gì cho sự giải thoát. Trên thực tế, dù nhìn bằng bất cứ cách nào, tánh-không không phải là một trạng thái của tâm; giống như Đức Đạt Lai Lạt Ma có nói, tánh-không chỉ đơn giản là "bản chất thật sự của mọi sự vật và mọi sự kiện." Điều này bao gồm cả tâm. Cho dù tâm của thiền giả có đầy-ắp-ý-nghĩ hoặc không-có-ý-nghĩ nào, bản chất thật sự nầy cũng giống như nhau.

PHẦN KẾT LUẬN

Cuối cùng, tánh-không dường như quá khó hiểu, như vậy tại sao Đức Phật lại dạy chúng ta điều nầy? Bởi vì sự hiểu biết sáng suốt, và sâu sắc của Đức Thế Tôn, ngài nhìn thấy lý do tại sao chúng ta đang gánh chịu sự đau khổ. Cuối cùng, chúng ta phải gánh chịu sự đau khổchúng ta luôn nắm giữ lấy sự vật, chúng ta nghĩ rằng sự vật là sự cố định, là sự bền bỉ, là sự thật, và cần được sở hữu do chính bản ngã của chúng ta. Chỉ khi nào chúng ta nhận thấy đây là sự ảo tưởng, rồi chúng ta mở lòng mình ra, nói theo cách của Ari Goldfield, "thực tế giống như là một dòng nước chảy, thay đổi liên tục, cho nên thực tế, cuối cùng là điều không-thể-nắm-bắt và không-thể-nghĩ-bàn", chúng ta cần phải tập thư giãn qua sự trong sáng, lòng từ bi và lòng dũng cảm. Đó là mục tiêu cao cả, mà chúng ta cần nỗ lực học hỏi, để hiểu biết giá trị của tánh-không.

 

Emptiness: The Most Misunderstood Word In Buddhism

"Emptiness" is a central teaching of all Buddhism, but its true meaning is often misunderstood. If we are ever to embrace Buddhism properly into the West, we need to be clear about emptiness, since a wrong understanding of its meaning can be confusing, even harmful. The third century Indian Buddhist master Nagarjuna taught, "Emptiness wrongly grasped is like picking up a poisonous snake by the wrong end." In other words, we will be bitten!

Emptiness is not complete nothingness; it doesn't mean that nothing exists at all. This would be a nihilistic view contrary to common sense. What it does mean is that things do not exist the way our grasping self supposes they do. In his book on the Heart Sutra the Dalai Lama calls emptiness "the true nature of things and events," but in the same passage he warns us "to avoid the misapprehension that emptiness is an absolute reality or an independent truth." In other words, emptiness is not some kind of heaven or separate realm apart from this world and its woes.

The Heart Sutra says, "all phenomena in their own-being are empty." It doesn't say "all phenomena are empty." This distinction is vital. "Own-being" means separate independent existence. The passage means that nothing we see or hear (or are) stands alone; everything is a tentative expression of one seamless, ever-changing landscape. So though no individual person or thing has any permanent, fixed identity, everything taken together is what Thich Nhat Hanh calls "interbeing." This term embraces the positive aspect of emptiness as it is lived and acted by a person of wisdom -- with its sense of connection, compassion and love. Think of the Dalai Lama himself and the kind of person he is -- generous, humble, smiling and laughing -- and we can see that a mere intellectual reading of emptiness fails to get at its practical joyous quality in spiritual life. So emptiness has two aspects, one negative and the other quite positive.

Ari Goldfield, a Buddhist teacher at Wisdom Sun and translator of Stars of Wisdom, summarizes these two aspects as follows:

The first meaning of emptiness is called "emptiness of essence," which means that phenomena [that we experience] have no inherent nature by themselves." The second is called "emptiness in the context of Buddha Nature," which sees emptiness as endowed with qualities of awakened mind like wisdom, bliss, compassion, clarity, and courage. Ultimate reality is the union of both emptinesses.

With all of this in mind, I would like to highlight three common misunderstandings of emptiness: emotional, ethical and meditative.

EMOTIONAL

When we say "I feel empty," we mean we are feeling sad or depressed. Emotionally speaking, "emptiness" is not a happy word in English, and no matter how often we remind ourselves that Buddhist emptiness does not mean loneliness or separateness, that emotional undertow remains. At various times I have looked for a substitute translation for the Sanskrit sunyata -- I have tried "fullness," "spaciousness," "connectedness," and "boundlessness" -- but as Ari Goldfield points out, "emptiness" is the most exact translation. "Emptiness" is also the term that my own teacher Shunryu Suzuki used, though he usually added context. Once, speaking of emptiness he said, "I do not mean voidness. There is something, but that something is something which is always prepared for taking some particular form." Another time, speaking of the feeling tone of emptiness, he said, "Emptiness is like being at your mother's bosom and she will take care of you."

ETHICAL

Some Buddhist students rationalize or excuse bad behavior of their teacher by asserting that through his understanding of emptiness the teacher is exempt from the usual rules of conduct. One student said, "Roshi lives in the absolute so his behavior can't be judged by ordinary standards." While it is true that Buddhist teachers sometimes use unusual methods to awaken their students, their motivation must come from compassion, not selfishness. No behavior that causes harm is acceptable for a Buddhist practitioner, teacher or otherwise.

MEDITATIVE

Some Buddhist students think that a meditative state without thought or activity is the realization of emptiness. While such a state is well described in Buddhist meditation texts, it is treated like all mental states -- temporary and not ultimately conducive to liberation. Actually emptiness is not a state of mind at all; it is, as the Dalai Lama says, simply "the true nature of things and events." This includes the mind. Whether the mind of the meditator is full of thoughts or empty of them, this true nature holds.

CONCLUSION

Finally, since emptiness seems so difficult to understand, why did the Buddha teach it at all? It is because of his profound insight into why we suffer. Ultimately we suffer because we grasp after things thinking they are fixed, substantial, real and capable of being possessed by ego. It is only when we can see through this illusion and open ourselves, in Ari Goldfield's words, "to the reality of flux and fluidity that is ultimately ungraspable and inconceivable" that we can relax into clarity, compassion and courage. That lofty goal is what makes the effort to understand emptiness so worthwhile.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22470)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21744)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23318)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21178)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
(Xem: 21759)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22225)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23599)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20412)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20047)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21945)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24736)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18979)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 30967)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23972)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27756)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26503)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 38109)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18798)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18425)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19945)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19029)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23137)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 22900)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 18707)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15841)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18839)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19642)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20144)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19945)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18110)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 16408)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16915)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39211)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26045)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20087)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18839)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24047)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29103)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22897)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30932)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 20997)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26844)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20663)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26243)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23316)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19815)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 15822)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 19836)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 28945)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20676)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19411)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30477)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36412)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33195)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35537)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 20964)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21910)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25250)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25783)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31235)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant