Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Ánh Sáng Giác Ngộ Qua Cái Nhìn của Bồ-tát Tất-đạt-đa

23 Tháng Mười Hai 201914:47(Xem: 7860)
Ánh Sáng Giác Ngộ Qua Cái Nhìn của Bồ-tát Tất-đạt-đa

Ánh Sáng Giác Ngộ Qua Cái Nhìn của Bồ-tát Tất-đạt-đa

Xưa và nay, trong lịch sử của nhân loại, tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân. Nhờ trải qua các quá trình kham nhẫn, tu, học, và giúp đỡ cho tự thân và tha nhân như vậy, thì họ mới có thể trở thành những nhà khoa học, toán học, văn học, triết học, đạo học, v. v… Bồ-tát Tất-đạt-đa Gautama,[1] một vị đạotâm linh hoàn hảo, có đầy đủ đức hạnh, từ bi, và trí tuệ, trải qua 6 năm tu khổ hạnh rừng già với năm anh em Ông A-nhã Kiều-trần-như. Sau một thời gian tầm sư học đạo, Bồ-tát, một con người xuất chúng bằng xương bằng thịt, đã tìm ra chân lý bằng cách thiền định tại Bồ-đề-đạo-tràng suốt 49 ngày đêm, và chứng ngộ viên mãn dưới cội cây Bồ-đề. Lúc đó, Bồ-tát trở thành Phật hiệu là Thích-ca-mâu-ni, một đức Phật lịch sử, có mặt trong lịch sử tư tưởng của nhân loại, được chư thiênloài người tôn kính, có khả năng đem ánh sáng giác ngộ, tình thương, và hòa bình đích thực cho pháp giới chúng sanh trên khắp hành tinh này.   

Qua những ý nghĩa tổng quát được đề cập ở trên, người viết mạnh dạn đặt tựa đề cho bài viết này là “Ánh Sáng Giác Ngộ qua Cái Nhìn Tuệ Giác của Bồ-tát Tất-đạt-đa.” Cái nhìn ở đây được hiểu là cái nhìn kết quả của việc thực tập thiền quántuệ giác, có khả năng thấy rõ tiến trình kham nhẫn, tinh tấn, tu tập thiền định, thành đạo, hoằng pháp, và giáo hóa chúng sanh của Bồ-tát Tất-đạ-đa (Bodhisattva Siddhārtha). Trong chủ đề của bài viết này, chúng ta bắt gặp các cụm từ như “Ánh Sáng, Giác Ngộ, Bồ-tát, Tất-đạt-đa.” Sau đây, người viết lần lượt giải thích từng thuật ngữ một và tìm hiểu ý nghĩa và nội dung của các thuật ngữ trên.

Thông thường, khi đề cập tới ánh sáng, người ta nghĩ tới ánh sáng mặt trời, ánh sáng mặt trăng, ánh sáng sao hôm, sao mai; áng sáng đèn điện, đèn xe, đèn ne-on, v. v … Các loại ánh sáng này là ánh sáng thiên nhiên, ánh sáng vật chất, hay ánh sáng nhân tạo mà thôi. Khác với các loại ánh sáng trên, ánh sáng được thảo luận ở đây chính là ánh sáng giác ngộ, xuất phát từ sự tu tập thiền định, kham nhẫn, tinh tiến, thanh lọc, và chuyển hóa phiền não thành giác ngộ của Bồ-tát Tất-đạt-đa. Nhờ tu tập thiền định thuần tịnh, chánh niệm, và tỉnh thức, Bồ-tát có khả năng đoạn tận vô minh, phiền não, lậu hoặc, chấp thủ, v.v… thành tựu giác ngộ, và chấm dứt vòng tái sinh luân hồi.

Như vậy, ánh sáng giác ngộ được đề cập ở đây tượng trưng cho đạo Phật, đức Phật, chánh pháp, và các vị đệ tử (Tăng đoàn). Đạo Phật là đạo hòa bình, đức Phật là vị Vua hòa bình, chánh phápcon đường hòa bình, và các vị đệ tử là những vị sứ giả hòa bình.[2] Hòa bình thực sự có mặt khi nào chúng ta học, hiểu, hành trì, và ứng dụng Phật pháp vào trong đời sống hằng ngày một cách thích hợp trong các địa phương, trú xứ, và quốc độ khác nhau. Khi chúng ta hiểu và thực hành được như vậy, thì ánh sáng giác ngộ của đức Thế Tôn có khả năng chiếu sáng trên khắp thế gian này. Hơn nữa, chúng ta biết trong yếu tố giác ngộ còn có các chất liệu khác như chánh niệm, tỉnh thức, vững chãi, thảnh thơi, thong dong, và tự tại. Thành tựu được các chất liệu ấy, hành giả chắc chắn sẽ có an lạc ngay bây giờ và ở đây trong giờ phút hiện tạiGiác ngộ có nhiều ý nghĩa và giai đoạn khác nhau như sau:

Giác ngộ của hành giả phàm phu, qua quá trình tu tập, chuyển hóa phiền não, áp dụng, và thực hành Phật pháp vào trong đời sống hằng ngày của mình, chúng tathể đạt được giác ngộ từng phần và dần dần. Giác ngộ của hành giả Bồ-tát, qua quá trình tu tập, đoạn tận hết các phiền não, và khám phá được khổ (Dukkha), khổ tập (Dukkha Samudaya), khổ diệt (Dukkha Nirodha), và con đường đưa đến khổ diệt (Dukkha Nirodha Gāminī Patipadā),[3] Bồ-tát Tất-đạt-đa có khả năng đạt được giác ngộ toàn phần và toàn hảo.

Trong quá trình tu tập của Bồ-tát Tất-đạt-đa, với chánh niệm và tỉnh giác, vững chãithảnh thơi, Bồ-tát không những thành tựu giác ngộ giải thoát trong nhiều đời sống quá khứ, mà ngay trong hiện đời, ngài là hiện thân một đức Phật sơ sinh, và cũng là đức Phật Thích-ca-mâu-ni (Sakyamuni Buddha) sau này. Có lần nọ, vua Tịnh Phạn, thân phụ của Ngài, đã hai lần chắp tay chào xá con mình và một lần đảnh lễ đức Phật; đó là,  

1.         Vua chắp tay xá chào con mình trong lúc đạo Sĩ A-tư-đà (Asita) đang xem tướng cho thái tử sơ sinh. Sau này, thái tử sẽ đi tu và trở thành một Bậc tỉnh thứcgiác ngộ viên mãn, có khả năng đưa đường và chỉ lối hòa bình, an lạchạnh phúc cho số đông trên khắp hành tinh này.

2.         Trong buổi lễ cày cấy, vua chắp tay xá chào con mình trong lúc thái tử 9 tuổi đang ngồi thiền dưới cây hồng táo, chiêm nghiệm, và thấy chúng sanh đang tranh giành, giết, và ăn thịt lẫn nhau. Với tâm từ sẵn có, thái tử khởi tâm thương yêu đến tất cả chúng sinh muôn loài.

3.         Vua đảnh lễ đức Phật trong khi đức Phật đang đi khất thực trên đường về thăm thành Ca-tỳ-la-vệ, nơi đây các vị hoàng thân quốc thích trưởng thượng trong hoàng cung sinh tâm cao ngạo và cho rằng đức Phật chỉ là con cháu của họ mà thôi. Lúc ấy, đọc được tư tưởng của các vị, đức Phật liền dùng năng lực nước từ bi và lửa trí tuệ nhiếp phục để cảm hóa họ. Lúc đó, những người này sinh tâm cung kínhđảnh lễ đức PhậtTăng đoàn.

Như vậy, chúng ta thấy rằng khả năng giác ngộ bao gồm chất phàm và chất thánh luôn có mặt trong thân tâm của họ. Trong chất phàm có chất thánh; trong chất thánh có chất giác ngộgiải thoát. Chất thánh trong Phật giáo được hiểu là Phật tánh hay chất Phật. Tuy nhiên, xét về khía cạnh tuyệt đối, chúng ta thấy khả năng giác ngộ trong họ, ở thánh Phật tánh không tăng, ở phàm Phật tánh không giảm.

Hiểu rộng thêm nữa là, theo quan điểm từ bi của Phật giáo, ở trong con người và con vật, Phật tánh đều có, và ngay cả ở trong các loài vô tình, Phật tánh cũng đều có mặt. Hiểu rõ được ý nghĩa như vậy, thì chúng ta có thể vun trồng và tưới tẩm Phật tánh trong ta và trong các loài hữu tình và vô tình bằng cách bảo vệ môi sinh, tôn trọng sự sống của muôn sự và muôn vật bằng cách thực hành điều đạo đức thức thứ nhất của đạo giác ngộ. Dù ở địa vị phàm phu hay thánh quả, dù ở các loài vô tình hay hữu tình, nếu chúng ta tu tập tâm từ bi và trí tuệ tốt đẹp, thì ánh sáng Phật tánh trong ta hiển bày

Tuy nhiên, xét về khía cạnh tương đối, chúng ta biết sự biểu hiện Phật tánh tùy theo mức độ tu tập của mỗi hành giả phàm phuhành giả Bồ-tát. Ở thánh, Phật tánh tỏa sáng như ánh trăng Rằm, ở phàm, Phật tánh tỏa sáng như ánh trăng khuyết. Đối với hành giả Bồ-tát, qua quá trình tu tậpchứng ngộ, Phật tánh có thể tỏa sáng 100%, vì phiền nãolậu hoặc đã được đoạn diệt. Đối với hành giả phàm phu, qua quá trình tu tập, thanh lọc và chuyển hóa, Phật tánh có thể tỏa sáng khoảng …40, 60, 80…%, vì phiền nãolậu hoặc đang và cuối cùng sẽ được đoạn diệt hoàn toàn.

Trăng mờ vì mây, Phật tánh mờ vì phiền não; mây tan nhờ gió, phiền não tham, sân, si… đoạn diệt nhờ tu tậpchuyển hóa. Tu tập có nghĩa là quá trình nhận diệnchuyển hóa các phiền não tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến... Khi các phiền não đã được chuyển hóađoạn diệt, thì ánh sáng giác ngộ của hành giả Bồ-tát tròn sáng và hiển bày. Ở điểm này, Bồ-tát Tất-đạt-đa, người đã làm được, đã chứng ngộ viên mãn, và đáng được thế gian quy ngưỡngtôn kính.

Khi thảo luận ở đây, ánh sáng giác ngộ được hiểu là ánh sáng thiền định, ánh sáng tuệ giác, ánh sáng hòa bình, ánh sáng đại hùng, đại lực, và đại từ bi do chính Bồ-tát Tất-đạt-đa khám pháchứng ngộ. Nó không từ trên trời rơi xuống, nó không phải một món quà do một đấng thần linh ban tặng. Nó do chính Bồ-tát nếm và trải nghiệm qua sự tu tập, thực hành, và chứng ngộ tâm linh. Nó rất vi diệu, thù thắng, và thiết thực hiện tại, dành cho những ai quan tâm, học hỏi, hành trì, và ứng dụng tới Phật pháp vào trong đời sống hằng ngày của mình để đem lại hòa bình, an vui, và hạnh phúc cho tha nhân ngay tại thế gian này.

Thực vậy, ánh sáng giác ngộ không chế tác bằng tham, sân, si, vô minh, tà kiến, hận thù, và chiến tranh. Nó được chế tác bằng chánh kham nhẫn, tinh tấn, nỗ lực, tinh thần tự tu, tự độ, tự ngộ và tự giải thoát qua việc thực tậpứng dụng các chất liệu từ bi, trí tuệ, hòa bình, thiền định, và tuệ giác cho số đông ngay bây giờ và ở đây trong cuộc sống hiện tại. Các chất liệu an lạc này có khả năng khơi dậy và đánh thức những hoa trái tuệ giác trong thân tâm của Bồ-tát trở nên bừng sáng.

Bồ-tát trong tiếng Phạn (Sanskrit) được viết là Bodhisattva; Bồ-đề (Bodhi) có nghĩa là lớn, là giác ngộ, hay là tỉnh thứcSattva có nghĩa là một chúng sanh, một hữu tình, hay là một con người giác ngộ. Vậy Bồ-tát (Bodhisattva) có nghĩa là một chúng sinh đã đạt được sự giác ngộtỉnh thức nguyện đi trên đường vui, tu tập, và giải thoát để làm lợi ích cho tự thân và cho tha nhân ngay cuộc đời này.

Trên lộ trình hướng đến giác ngộgiải thoát, Tất-đạt-đa là một vị Bồ-tát bằng xương bằng thịt có thật trong lịch sử tư tưởng nhân loại có đầy đủ phúc đứctrí tuệ, dũng mãnhtinh tấn, nghị lựckham nhẫn, tìm ra chân lý và ánh sáng giác ngộ sau này. Chính vị Bồ-tát này đã tu tập thiền định hoàn hảo, trở thành một bậc đạo Sư tâm linh cao thượng, dẫn dường chỉ lối an vui và hòa bình cho pháp giới chúng sanh trên khắp hành tinh.  

Phàm phu chúng ta, vì nghiệp lực, mà sinh ra nơi đời, nên mỗi người gặp nhiều hoàn cảnh khác nhau, căn tánh khác nhau, gia đình khác nhau, mức độ giàu nghèo khác nhau… không ai giống ai cả. Thái tử Tất-đạt-đa, một vị Bồ-tát đích thực, vì nguyện lực, mà sinh ra nơi đời trong một gia đình hoàng tộc, giàu sang, và quyền quý ở thành Ca-tỳ-la-vệ (P. Kapilavatthu S. Kapilavastu), một phần của Nê-pan ngày nay.[4]

Lớn lên, thái tử lập gia đình với công chúa Da-du-đà-la (Yasodharā), và có người con trai duy nhất là La-hầu-la (Rāhula). Cùng với người hầu cận tên là Sa Nặc, một hôm thái tử đi viếng thăm bốn cửa thành, thấy bốn cảnh thật của cuộc đời; đó là, người già, người bệnh, người chết, và vị ẩn sĩ. Cảnh thật thứ tư là vị khất sĩ tượng trưng cho cách sống thong dongtự tại, tạo ấn tượng sâu sắc trong tâm khảm của thái tử, và tạo nguồn cảm hứng cho thái tử sau này trở thành một vị xuất sĩ không nhà sống trong môi trường thiên nhiênnúi rừng.

Thực hànhtrải qua 6 năm khổ hạnh tại hang động Mahakala trên núi núi Tượng Đầu (Dhungeshwari), mỗi ngày Bồ-tát Tất-đạt-đa chỉ ăn một ít hoa quả, và dần dần thân thể của ngài chỉ còn da bọc xương mà thôi. Khi khám phá lối tu khổ hạnh này không đưa đến kết quả an lạcgiải thoát, Bồ-tát quyết tâm thực hành theo phương pháp Trung Đạo: (không tham đắm dục lạc, và không khổ hạnh ép xác) bằng cách thọ nhận và dùng bát cháo sữa của nàng Su-dà-ta (Sujata) cúng dường. Sức khỏe của Bồ-tát trở nên bình phục. Sau đó, Bồ-tát thọ nhận một bó cỏ cúng dường của người nông phu, đi thẳng tới Bồ-đề-đạo-tràng (Bodhgaya), trải qua nhiều ngày đêm thiền định dưới cội cây Bồ-đề. Cuối cùng, ngài chiến thắng ma quân (Ma quân tượng trưng cho các tập khí tham ái, sân giận, si mê, chấp thủ, v.v… trong nội tâm), và giác ngộ viên mãn.

Trong quá trình tu tập và hướng tới giác ngộ, Bồ-tát đã trải qua không chỉ sự kham nhẫn của nội tâm, mà còn sự kham nhẫn của ngoại cảnh; ngoại cảnh là cảnh bên ngoài, cụ thểthời tiết và môi trường thiên nhiên. Ở Ấn Độ, vào mùa nóng, nhiệt độ có thể lên tới 45 độ C. (45% C. = Celsius/ Centigrade = 120 degrees F. / Fehrenheit), và vào mùa lạnh, nhiệt độ có thể dưới 0 độ C. (0% C. = 0 degrees C. Celsius/ Centigrade = 32 degrees F. Fehrenheit). Trong thời đại ngày nay, sống ở trong nhà, chúng ta có đủ quần áo, chăn, gối, nệm, lò sưởi, máy điều hòa… để bảo vệ chúng ta rất ấm áp, nhưng đôi lúc chúng ta còn cảm thấy lạnh, nóng, và khó chịu.  

Bây giờ, chúng ta hãy suy nghĩ tiếp về Bồ-tát Tất-đạt-đa (Bodhisattva Siddhārtha), người đã sống đời sống không gia đình, ăn hoa quả, uống nước mưa, nước suối để nuôi thân, và đã dùng tỉnh thức, chánh niệm, và thiền định để nuôi tâm… Ban đêm, ngài ngủ dưới gốc cây, ban ngày, ngài đi khất thực. Ngài luôn dùng môi trường thiên nhiên làm nhà, dùng cây và lá rừng làm giường chiếu, dùng trăng sao làm đèn, dùng sự tu tập thiền, định, chánh niệm, và tỉnh giác làm món ăn tinh thần cho thân tâm, và dùng việc hoằng dương chánh pháp làm lợi ích cho tha nhân.

Tiếp đến là nội tâm, phần quan trọng và sâu kín nhất của con người, được hiểu là tàng thức (Ālaya Vijñāna), hàm chứa các hạt giống thiện và bất thiện. Các hạt giống thiện gồm có chánh kham nhẫn, chịu đựng, khắc phục, chọn lọc, vững chãi, tinh tiến, nghị lực, sức mạnh tinh thần, niềm tin bất thoái, ánh sáng giác ngộ, tuệ giác... Các hạt giống bất thiện gồm có giải đãi, biếng nhác, thoái lui, do dự, lưỡng lự, nhu nhược, yếu đuối, si mê, vô minh, v.v…

Tu tập là quá trình thực tập kham nhẫn, nuôi dưỡng, chọn lọc, thăng tiến, và chuyển hóa từ khó khăn thành an vui, khổ đau thành hạnh phúc, vô minh thành minh…. Tuy nhiên, con người chúng ta, khi gặp thời tiết khắc nghiệt, ăn uống thiếu thốn, ngủ nghỉ lạnh lẽo. v. v…, thường thì chúng taxu hướng sống chán nản và thoái lui. Nhưng, Bồ-tát Tất-đạt-đa luôn hoan hỷ đón nhận những cảnh khó khăn, khổ hạnh, và kham nhẫn, xem những nghịch cảnh này tạo thành sức mạnh tinh thần, ý chí dũng mãnh, tinh tiến, và nghị lực phi thường, và hướng Bồ-tát tới giác ngộgiải thoát tâm linh sau này.

Với tinh thần đại hùng, đại lực, đại bi, và đại trí, khi đạt được giác ngộgiải thoát, thì Bồ-tát Tất-đạt-đa đã thực hành chánh tinh tấn, kham nhẫnkiên nhẫn. Muốn đạt giác ngộthành Phật, Bồ-tát phải bắt đầu từ con người duyên sinh (S. pratītyasamutpāda; P. paticcasamuppāda). Nương vào con người này, Bồ-tát tu tậptìm ra chất thánh, chất vững chãithảnh thơi, an vui và hạnh phúc. Lìa con người này ra, Bồ-tát không tìm được các chất liệu ấy. Là hành giả giác ngộtỉnh thức, Bồ-tát đã tìm ra ánh sáng chân lý qua việc áp dụngthực tập chánh kiến, chánh tư duy, chánh kham nhẫn, thanh lọc, và chuyển hóa các phiền não tham, sân, si…

Chính vì vậy, đạo Phật luôn dạy con người tu tập, chuyển hóa, và chuyển nghiệp là yếu tố then chốt hướng tới giác ngộ. Nương vào một đấng tối cao nào đó để tìm kiếm giác ngộ nơi vị ấy, thì hành giả không bao giờ tìm thấy. Nương vào con người duyên sinh để tu tập, để thanh lọc, và để chuyển hóa phiền nãolậu hoặc, thì hành giả có thể tìm thấy giác ngộ, giải thoát, và Phật tánh nơi chính mình.

Bồ-tát Tất-đạt-đa, người tu giỏi, tìm thấy ánh sáng giác ngộtuệ giác trong vô minhtà kiến, thấy Bồ đề trong phiền não, hạnh phúc trong khổ đau, sen trong bùn, và hoa trong rác, và thấy con đường Trung Đạo trong khổ hạnh ép xác và trong tham đắm dục lạc. Ngược lại, cùng tu khổ hạnh với Bồ-tát, 5 anh em của A-nhã Kiều-trần-như, những người tu không giỏi, không tìm thấy được con đường Trung Đạo, không thực hành thiền định hoàn hảo như Bồ-tát, và không tìm thấy giác ngộgiải thoát nơi tự thân.

Với sự kham nhẫnnỗ lực, với tinh thần đại hạnhđại nguyện, Bồ-tát đã tìm ra ánh sáng giác ngộ, chân lý Khổ (Dukkha), và con đường đưa tới chuyển hóa khổ đau (Dukkha nirodha gāmini patipadā ariya sacca). Con đường này là con đường Trung Đạo (Majjhimā paṭipadā) bao gồm đạo đức, thiền định, và trí tuệ, tương tức mật thiết với Thấy Biết Chân Chánh, Tư Duy Chân Chánh, Nói Năng Chân Chánh, Hành Động Chân Chánh, Nghề Nghiệp Chân Chánh, Siêng Năng Chân Chánh, Nhớ Nghĩ Chân Chánh, và Chuyên Tâm Chân Chánh. Ở khía cạnh nghĩa đen, con đường này được ví như con đường xa lộ có tám làn xe hỗ tương với nhau như hình với bóng tạo thành một phương tiện giao thông hữu ích giúp người ta đi lại dễ dàng. Ở khía cạnh nghĩa bóng, đó là con đường hòa bình bao gồm tám phương pháp thực tập rất thiết thực cho gia đình, học đường, và cho cả xã hội. Nếu mọi người cùng nhau áp dụngthực hành con đường này vào trong đời sống hằng ngày đúng pháp, thì họ có thể đem lại những hoa trái an vui và hạnh phúc đích thực cho số đông trên khắp hành tinh này. 

Trên đây, nội tâmngoại cảnh đã được trình bày. Tiếp theo, chúng ta tiếp tục tìm hiểu ý nghĩa ma quân. Khác với cảnh giới hữu hình của con người, ma thuộc cảnh giới vô hình; quân có nghĩa là một nhóm số đông. Theo giáo lý ẩn dụ của Phật giáo, ma quân dụ cho những hạt giống tiêu cực trong thân và trong tâm ta. Chẳng hạn như, mỏi mệt, biếng nhác, giải đãi, phóng túng, buông lung, do dự, nãn chí, thoái lui, tham lam, sân giận, si mê, bạo động, hận thù, v.v…, là những tập khí tiêu cực. Chánh kham nhẫn, tinh tấn, dõng mãnh, nghị lực, sức sống, khoan dung, độ lượng, an lạc, hạnh phúc, hòa bình, tuệ giác, v.v… đều là những tập khí tích cực.

Là người tỉnh thức, chúng ta nhận diện rằng các hạt giống tiêu cựctích cực luôn có mặt trong ta từ giờ này sang giờ khác, từ ngày này sang ngày khác, từ tuần này sang tuần khác, từ tháng này sang tháng khác, và từ năm này sang năm khác. Tu tập là quá trình giúp chúng ta thanh lọc và chuyển hóa các hạt giống tiêu cực thành các hạt giống tích cực bằng cách áp dụngthực hành Phật pháp vào trong đời sống hằng ngày của mình một cách tinh chuyên, chánh niệm và tỉnh giác. Khi chúng ta thực tập được như vậy, thì các hạt giống tiêu cực trong ta dần dần sẽ được chuyển hóa, các hạt giống tích cực trong ta sẽ được phát triển, và ánh sáng giác ngộ trong ta sẽ được hiển bày.  

Ngược lại, khi chúng ta tu tập Phật pháp không giỏi, hạt giống tích cực trong ta sẽ bị giảm và mất dần, hạt giống tiêu cực trong ta tăng trưởng và tăng nhanh, Phật tánh và ánh sáng giác ngộ trong ta sẽ bị lu mờche khuất. Người tu tập Phật pháp giỏi thì họ sẽ gặt hái hoa trái an vui và hạnh phúc rất nhiều. Người tu học Phật pháp không giỏi hoặc tu học Phật pháp lai rai thì họ sẽ gặt hái hoa trái an vui và hạnh phúc rất ít. Quá trình tu tập là quá trình giúp chúng ta đạt tới ánh sáng giác ngộ, an vui, và hạnh phúc trong từng phút, từng giờ, từng ngày, và trong các giai đoạn khác nhau của cuộc đời.

Theo ý nghĩa ẩn dụ, ma quân chỉ cho cái tâm đố kỵ, kỳ thị, sợ hãi, thấp kém, không giỏi bằng người, và sợ người khác giỏi hơn mình. Nếu một người không tu tập hoặc tu tập chút chút, thì ma quân trong vị ấy dễ dàng xuất hiện, và ngược lại, nếu một người tu tập tinh chuyên, thì ma quân trong vị ấy biến mất dần dần.

Khi sao Mai vừa mọc, Bồ-tát Tất-đạt-đa, người tu tập tinh chuyên, hoàn toàn chiến thắng ma quân bằng cách đoạn tận các phiền nãotập khí tiêu cực trong Ngài. Lúc đó, tâm Bồ-tát trở nên bừng sáng, ánh sáng giác ngộ, hòa bình, an lạchạnh phúc trong ngài có khả năng chiếu sáng khắp nơi tự thân và tha nhân ngay tại thế gian này.

Qua các ý nghĩa đề cập ở trên, chúng ta thấy rằng ánh sáng giác ngộtỉnh thức đều bắt nguồn từ pháp hành; vững chãithảnh thơi đều bắt nguồn từ pháp hành; an lạchạnh phúc cũng đều bắt nguồn từ pháp hành. Cùng với pháp hành là pháp hiểu, pháp học, pháp thiền, pháp định, pháp lạc, pháp hoằng, và pháp hộ đi cùng với Bồ-tát Tất-đạt-đa. Xuyên qua pháp hành, ngài hoàn toàn có đủ các chất liệu ấy.

Ở điểm này, chúng ta nên hiểu thêm rằng, khi một con người sinh ra đời, vị ấy có đầy đủ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và ý, thì cả gia đình của vị ấy đều vui. Khi vị ấy lớn lên, học hành, đỗ đạt, thành tài, có công việc làm ăn ổn định, và lập gia thất, thì tự thân của vị ấy không những vui, mà gia đình nội ngoại hai bên của vị ấy cũng đều vui. Những ý nghĩa trên đây được nói đến con người thế gian. Khác với con người thế gian, Bồ-tát Tất-đạt-đa, con xuất thế gian, đã tìm ra ánh sáng giác ngộ, chân lý khổ đau, và con đường chuyển hóa khổ đau dưới cội cây Bồ-đề (Bodhi) tại Bồ-đề-đạo-tràng (Bodhgaya) khoảng năm 589 trước thường lịch. Ở thế giới này, không những các loài hữu tình, mà các loài vô tình trên quả địa cầu đều được thấm nhuần ánh sáng tuệ giác, từ bi, trí tuệ, hòa bình, và an lạc từ nơi ngài.

 “Bồ-tát Tất-đạt-đa,

quyết tâm đi xuất gia,

an trú vui thiền định,

chứng ngộ đạo tỉnh thức,

chứng ngộ đạo hòa bình,

chứng ngộ đạo giải thoát,

chỉ dạy cho chúng sanh,

đi trên đường chân chánh

bằng ánh sáng giác ngộ,

bằng ánh sáng Phật pháp,

bằng ánh sáng Tăng đoàn

của đức Phật Thế Tôn.

Người người cùng tu tập,

nhà nhà được an vui.”

(Người viết)

Theo cái nhìn tương tức của Phật giáo, đức Phật sơ sinh, thái tử Tất-đạt-đa, hay Bồ-tát Tất-đạt-đa, đều bắt nguồn từ con người duyên sinhgiả hợp (Sanskrit pratītyasamutpāda; Pali paticcasamuppāda). Xuyên qua việc tu tập chánh tinh tấn, kham nhẫn, và thiền định, nương vào con người này, Bồ-tát Tất-đạt-đa tìm ra ánh sáng giác ngộ nơi tự thân, giáo hóa, và làm lợi ích cho tha nhân. Do vậy, khi con người này sinh ra, không những dân chúng và dòng dõi hoàng gia tại thành Ca-tỳ-la-vệ thuộc Ấn Độ cổ đại, một phần của nước Nê-pan (Nepal) ngày nay, vui mừng, mà cả pháp giới chúng sinh trên khắp hành tinh cũng đều vui mừng.

Có hai lý do chính sau đây: Thứ nhất, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) và hoàng hậu Ma Da (Māyādevī), lúc trên 40 tuổi, mới có con đầu lòng đặc tên là Tất-đạt-đa, con người toại nguyện, có đầy đủ phước đứctrí tuệ. Cả vua và hoàng hậu đều hiến tặng cho trái đất này một con người quý nhất trong lịch sử tư tưởng của nhân loại. Thực vậy, con người toại nguyện này luôn luôn có tâm niệm lành, ý nghĩ lành, và lời nói lành để đem ánh sáng hòa bình, từ bi, trí tuệ, giác ngộ, giải thoát, an vui, và hạnh phúc cho số đông trên khắp hành tinh này.

Ngày nay, với niềm tin chánh tín đối với Tam Bảo, những ai có đủ duyên lành học, hiểu, dạy dỗ, hành trì, và ứng dụng Phật pháp vào trong đời sống hằng ngày, thì họ có khả năng hiến tặng đức hạnhtrí tuệ cho gia đình, cho tự viện, cho dòng họ, và cho cả xã hội. Khi hiểu và thực hành được như vậy, thì họ có khả năng góp phần xây dựng một quê hương thanh bình, các gia đình hạnh phúc, và cõi cực lạc ngay tại thế gian này.

Thứ hai, sau khi thái tử Tất-đạt-đa sinh ra, nhận lời mời của vua Tịnh-phạn (Suddhodana), tiên A-tư-đà (Asita) và nhà hiền triết Kiều-trần-như, hai vị ẩn sĩ nổi tiếng thời bấy giờ, thỉnh vào triều đình Ca-tỳ-la-vệ (Pàli. Kapilavatthu Phạn. Kapilavastu) để xem tương lai cho thái tử. Cả hai vị cùng tiên đoán rằng khi lớn lên, thái tử chắc chắn sẽ từ bỏ con đường làm vua, quyết định chọn con đường xuất gia, ngộ lý vô thường, tu tập thiền định, trở thành Người giác ngộ toàn hảo, và đem lại an lạclợi ích cho nhân sinh.

Thật vậy, những lời tiên đoán của tiên A-tư-đà và A-nhã Kiều-trần-như là những lời tiên tri duy nhất trong lịch sử Phật giáonhân loại, sau này trở thành sự thật. Với tinh thần tự tu, tự giải thoát, tự ngộ, tự độ, và độ tha, thái tử Tất-đạt-đa lớn lên, ngộ lý vô thường, từ giả hoàng cung, quyết tâm xuất gia, trở thành Phật, hiệu là Thích-ca-mâu-ni (Sakyamuni Buddha). Trong tiếng Phạn, Muni có nghĩa là nhà hiền triết tĩnh lặng, Sakya thuộc dòng tộc hoàng giaSakyamuni có nghĩa là vị hiền triết tĩnh lặng của dòng họ Thích-ca.  Buddha có nghĩa là Người giác ngộtỉnh thức viên mãn. Vậy Sakyamuni Buddha có nghĩa là Người giác ngộ viên mãn có khả năng đoạn tận các phiền nãovô minh, sáng lập ra đạo Phật, đem hoa trái tình thương và hòa bình cho pháp giới chúng sinh trên quả địa cầu này.

Với hạt giống giác ngộ trong nhiều đời, với dòng dõi của các bậc thánh trong nhiều kiếp, khi Bồ -tát Tất-đạt-đa thành Phật, ánh sáng giác ngộ, từ bi, và hòa bình của ngài được truyền bá rộng rãi trong khắp nhân gian. Ánh sáng này bình đẳng, không kỳ thị, và không ngăn cản bất cứ ai cả. Những ai có đủ duyên lành học hỏi, hành trì, và ứng dụng Phật pháp vào trong đời sống hằng ngày một cách chuyên cần, chánh niệm, và tỉnh giác, thì họ có khả năng gặt hái những hoa trái an vui và hạnh phúc ngay bây giờ và ở đây trong cuộc sống hiện tại. Đây là điểm đặc thù của đạo Phật hiếm thấy hoặc không tìm thấy trong các tôn giáo bạn.

Tóm lại, qua những gì đề cập ở trên, chúng ta biết rằng ánh sáng giác ngộ được xuất phát từ sự tu chứng của Bồ-tát Tất-đạt-đa. Khi Bồ-tát trở thành Phật, bậc giác ngộ viên mãn, cùng với các vị đệ tử, những vị sứ giả hòa bình, tiếp tục lên đường vận chuyển bánh xe chánh pháp để truyền bá ánh sáng giác ngộ và hòa bình cho số đông khắp cõi Ấn Độ.

Ngày nay, ánh sáng giác ngộ và hòa bình không những truyền báẤn Độ, mà còn truyền bá khắp nơi trên thế giới. Nơi nào ánh sáng giác ngộ được truyền bá, thì nơi đó con người an trú vững chãi trong đạo tỉnh thứcgiác ngộ, họ không bao giờ gặp sự kỳ thị, phân biệt chủng tộc, và phân chia giai cấp. Nơi nào đạo Phật được truyền bá, thì nơi đó, với sự tu tậpứng dụng Phật pháp vào trong đời sống hằng ngày, con người sẽ sống hiền và thiện ra. Nơi nào đạo Phật có mặt, thì nơi đó đạo Phật, đạo hòa bình, không bao giờ gây ra chiến tranh tôn giáo cho bất cứ ai. Cũng vậy, nơi nào đạo Phật có mặt, thì nơi đó quê hương, dân chúng, làng xóm không những được thanh bình, mà thiên nhiên và muôn thú đều được yên vui, bởi lẽ các loài hữu tình và vô tình đều thấm nhuần giáo lý giác ngộ, từ, bi, và trí tuệ của đạo hòa bình. Khi hiểu và thực hành được như vậy, thì chúng ta cùng nhau góp phần đem lại an lạchạnh phúc đích thực cho số đông trên khắp hành tinh này.

Kính chúc quý vị và gia quyến an lạchạnh phúc trong ánh sáng giác ngộ và hòa bình của đức Phật Thế Tôn.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Trung Sy

By Thích Trừng Sỹ

The Light of Enlightenment through Bodhisattva Siddhārtha’s vision

Anciently and presently, in the history of humankind, all religious leaders and secular leaders want to achieve good results in life, first, they have to experience the processes of endurance, effort, cultivation, learning, training themselves, helping, and bringing the benefits to other people. Thanks to overcoming the processes of patience, cultivation, learning, and helping themselves and others like this, they can become scientists, mathematicians, writers, philosophers, religious leaders, etc. Bodhisattva Siddhārtha Gautama,[5] a perfect spiritual Master, who was full of the qualities of virtue, loving-kindness, compassion, and wisdom, spent 6 years practicing asceticism in an old jungle with five brothers of Elder Aññā Kondañña. After a while looking for teachers to study, Bodhisatva, an outstanding person in the flesh and bone, found out the truth by meditating in Bodhgaya throughout 49 days and nights, and got perfect enlightenment beneath the Bodhi tree. At that time, Bodhisattva became the Buddha titled Sakyamuni, the historical Buddha, present in the history of human thought, respected and honored by gods and human beings, and had the capacity to bring the light of enlightenment, love, and authentic peace to all living things and living beings all over this planet.

Through the above mentioned general meanings, the writer boldly titles this writing “The Light of Enlightenment through Bodhisattva Siddhārtha’s Vision.” This vision, which is here understood as the resultant vision of practicing contemplation meditation and insight, has the ability to clearly see the process of endurance, diligence, cultivation of meditation and concentration, enlightenment attainment, Dharma propagation, and the teaching of human beings of Bodhisattva Siddhārtha. In the title of this writing, we encounter words like “Light, Enlightenment, Bodhisattva, Siddhārtha.” Here, the writer explains in turn each terminology and learn about the meanings and contents of the foregoing terminologies.        

Normally, when referring to the light, people often think about sunlight, moonlight, evening star light, morning star light, electric lights, car lights, neon lights, etc. These kinds of lights are natural light, material lights, or artificial lights. Different from kinds of those lights, the light here discussed mainly is the light of enlightenment, originates from Bodhisattva Siddhārtha’s meditation practice, endurance, effort, purification, and defilement transformation into enlightenment.

Thanks to practicing meditation-concentration purely, mindfully, and consciously, Bodhisattva who had the ability to terminate ignorance, defilements, leaks, attachments, etc., achieved enlightenment, and ended the cycle of death and rebirth.

The light of enlightenment mentioned here symbolizes Buddhism, the Buddha, the Dharma, and his disciples (Sangha). Buddhism is the religion of peace, the Buddha is the King of peace, the Dharma is the path of peace, and the disciples are the messengers of peace.[6] Peace is authentically present whenever we learn, understand, practice, and apply the Buddhadharma in our daily lives appropriately in various localities, regions, and countries. When we understand and practice so, the light of the World-Honored One’s enlightenment has the ability to shine all over the world. Moreover, we know that in the factors of his enlightenment, there are still other substances such as right mindfulness, awareness, stableness, relaxation, carefreeness, and calmness. Achieving those qualities, practitioners will undoubtedly obtain peacefulness and joyfulness right here and right now in the present moments. Enlightenment contains many different meanings and stages as follows:

Enlightenment of ordinary practitioners, through the process of cultivating, transforming defilements, applying, and practicing the Buddha Dharma in our daily lives, we can obtain enlightenment partially and gradually. Enlightenment of the Bodhisattva practitioner, through the process of having cut off afflictions, and discovering the truth of suffering (Dukkha), the origin of suffering (Dukkha Samudaya), the cessation of suffering (Dukkha Nirodha), and the path leading to the cessation of suffering (Dukkha Nirodha Gāminī Patipadā),[7] Bodhisatta Siddhārtha had the ability to attain enlightenment fully and perfectly.    

In the process of his cultivation, with right mindfulness and awareness, stableness and tranquility, Bodhisattva Siddhārtha not only achieved enlightenment of liberation in his past lives, but also right in his present life, he was the embodiment of a newborn Buddha, and also Sakyamuni Buddha later. On one occasion, king Suddhodana, his father, had twice greeted his son with respectfully joined hands and once paid homage to the Buddha; that is,

1.         The king put his hands together and greeted his son while the seer Asita was considering prince’s physiognomies. The prince who would later leave the royal family for a religious life became the fully awakened and enlightened One, had the ability to show the path of peace, joyfulness and happiness to the many all over this planet.

2.         In the ceremony of plow and cultivation, the king put his hands together and greeted his son while the prince at the age of 9 meditating beneath a pink apple tree contemplated, and saw living beings fighting, killing, and eating one another. With his ready compassion heart, the prince spread his loving heart to all living things and living beings.   

3.         The king paid homage to the Buddha while the Buddha was going for alms on the way back to visit Kapilavastu City, where his elderly imperious relatives in the royal palace bore their minds of arrogance and thought that the Buddha was only their descendant. At that time, reading their thoughts, the Buddha used energies of compassionate water and wisdom fire to collect and convince them. At that time, these people aroused their respectful hearts and paid homage to the Buddha and his Sagnha.

Thus, we can see the potential for enlightenment comprising the secular substance and the holy substance, which are always present in their bodies and minds. In the secular substance, there is the holy substance; in the holy substance, there are the substance of enlightenment and liberation. The holy substance in Buddhism is understood as Buddha nature or Buddha substance. However, considering the absolute aspect, we see the potential for enlightenment within themselves, in the holy substance, Buddha nature is no more, and in the secular substance, Buddha nature is no less.

Understanding more broadly, according to the standpoints of Buddhist loving-kindness and compassion, in human beings and in animals, Buddha nature is present, and even in insentient beings, Buddha nature is also present. Understanding the meanings clearly like this, we can cultivate and water Buddha nature in us, in sentient beings, and in insentient beings by protecting the environment, respecting their lives of all living things and living beings by practicing the first ethical training of Buddhism, the path of enlightenment. Whether in secular position or in holy position, whether in kinds of insentient beings or in those of insentient beings, if we practice loving-kindness, compassion, and wisdom well, the light of Buddha nature within us visibly.

However, considering relative aspect, we know the manifestation of Buddha nature depends on the cultivation level of every ordinary practitioners and Bodhisattva practitioners. In the holy One, Buddha nature shines like the full Moon, in the human being, Buddha nature shines like the crescent Moon. Toward Boddhisattva practitioners, through the process of cultivation and enlightenment, Buddha nature within them can shine 100 percent, because their defilements and leaks have been annihilated. Toward ordinary practitioners, through the process of cultivation, purification, and transformation, Buddha nature  within them can shine …40, 60, 80 percent, etc., because their defilements and leaks are being annihilated and eventually will be totally annihilated.

The moon is dim because of clouds, Buddha nature is dim because of afflictions; clouds are dispersed by the wind, afflictions of desire, anger, delusion, etc., are annihilated by cultivation and transformation. Cultivation means the process of recognizing and transforming defilements of greed, anger, delusion, arrogance, doubt, wrong view, etc. When difilements are transformed and annihilated, the light of enlightenment of the Bodhisattva practitioner shines brightly and fully. At this point, Bodhisattva Siddhārtha, accomplishing and attaining perfect enlightenment, is worthy to be adored and respected by the world.

Thus, as discussed here, the light of enlightenment is understood as the light of meditation, concentration, that of insight, that of peace, that of great heroism, great power, and great loving-kindness and compassion discovered and obtained enlightenment by Bodhisattva Siddhārtha. It does not fall down from heaven, it is not a gift granted by a god. It is tasted and experienced by the Bodhisattva through his cultivation, practice, and spiritual attainment. It is very marvelous, surpassing, and practical in the present, intended for those who care about, learn, practice, and apply the Buddhadharma in their daily lives to bring peace, joy, and happiness to other people right in the world.  

This enlightenment light is not created by greed, anger, delusion, ignorance, wrong view, hatred, and war. It is created by right endurance, effort, diligence, the spirits of self-cultivation, self-support, self-enlightenment, and self-liberation through practicing and applying the substances of loving-kindness, compassion, wisdom, peace, meditation, concentration, and insight to the many right here and right now in this present life. These peaceful substances have the ability to arouse and awaken flowers and fruits of insight in Bodhisattva’s mind and body to become illuminated.

Bodhisattva is a Sanskrit word; Bodhi means greatness, enlightenment, awakening or awareness; Sattva means a being, a sentient being, or an enlightened human being. Thus, Bodhisattva means a being who has attained enlightenment and awareness vows to be on the way of joy, cultivation, and liberation to benefit for oneself and for other people right in this life.

On the route to leading to enlightenment and deliverance, Siddhārtha, who was the Bodhisattva in the flesh and bone actually in the history of human thought, was full of merit and wisdom, courage and effort, perseverance and patience, found the truth and the light of enlightenment later on. It was the Bodhisattva who practiced meditation and concentration perfectly became the nobly spiritual Master, instructed, and showed the way of joy and peace to all living things and living beings on earth.

We ordinary beings, because of the karma power, were born, we each encounter different situations, different natures and characteristics, different families, different levels of wealth and poverty, etc., no one is alike at all. Prince Siddhārtha, who is an authentic Bodhisattva, because of the vow power, was born in the world at his royal, wealthy, and powerful family in Kapilavatthu, a part of Nepal today.[8]

Growing up, the prince got married with Yasodharā, and had a unique son called Rāhula. Along with his attendant named Channa, one day the prince went to visit the four gates of royal palace, and saw four scenes of reality of life; that is, an old person, a sick person, a dead person, and an ascetic. The fourth scene, which was the ascetic, represented a calm and free way of life, made a deep impression in the prince’s heart, and created the inspirational sources for the prince later on to become a homeless monastic living in natural environment and exciting mountain and forests. 

Practicing and spending six years of asceticism in the Mahakala cave in Dhungeshwari mountain, everyday the Bodhisattva only ate a couple of fruits, and gradually his body only remained skins covering bones. When discovering this ascetic way did not lead him to the result of peaceful joy and deliverance, Bodhisattva Siddhārtha was determined to practice the method of the Middle Path (Pali: Majjhimā Paṭipadā; Sanskrit: Madhyamā Pratipad) (no sexual indulgence and no ascetic mortification) by receiving and to using a milky gruel bowl offered by Ms. Sujata. His health got better and better. After that, he received a bunch of grass from a Braminic farmer offered, and then he went straight to Bodhgaya, where he spent many days and nights meditating beneath the Bodhi tree. Finally, he defeated Mara’s armies (Mara stands for the habits of one’s own greed, anger, delusion, and clinging), and obtained perfect enlightenment.

In the process of cultivation and leading to enlightenment, the Bodhisattva overcame not only the patience of inner mind, but also that of the outer scene; outer scene is the external scene, specically weather and natural environment. In India, in the hot season, the temperature can rise above 45 degrees Celsius. (45% C. = Celsius/ Centigrade = 120 degrees F. Fehrenheit), and in the cold season, the temperature can be below 0 degrees Celsius. (0% C. = 0 degrees C. Celsius/ Centigrade = 32 degrees F. Fehrenheit). In the present age, living at home, we have enough clothes, blankets, pillows, mattresses, heaters, air-conditioner, etc. to protect us very well, but sometimes we still feel cold, hot, and uncomfortable.

Now, we would like to keep thinking about the Bodhisattva Siddhārtha, who lived his homeless life, ate flowers and fruits, drank rainwater, spring water to nourish his body, and used awareness, mindfulness, meditation, and concentration to nurture his mind, etc. By night, he slept beneath a tree and by day, he went for alms. He used the natural environment as home, used trees and forest leaves as beds, used the moon and stars as lamps, used cultivation of meditation, concentration, mindfulness, and awareness to make the spiritual food for his body and mind, and used Dharma propagation to benefit other people.  

The next is inner mind, which is the most important and deepest human part, is understood as storehouse of consciousness (Ālaya Vijñāna), contain the the good seeds and the non-good seeds. The good seeds consist of right patience, endurance, overcoming, selection, solidity, diligence, courage, spiritual strength, unshakable confidence, the light of enlightenment, insight, etc. The non-good seeds are comprised of slackness, laziness, regression, hesitation, feebleness, weakness, delusion, ignorance, etc.

Cultivaton is the process of patience practice, nurture, selection, advancement, and the transformation from difficulties into peacefulness, suffering into happiness, ignorance into clear understanding, etc. However, we humans, when encountering severe weather, eating deficiently, sleeping coldly, etc., usually, tend to live discouragingly and downheartedly. But, Bodhisattva Siddhārtha, who was always happy to welcome the difficulties, asceticism, and patience, considered these adversities to create his mental strength, strong will, effort, and extraordinary energy, and lead him to spiritual enlightenment and deliverance later on.

With the spirits of great hero, great power, great compassion, and great wisdom, when obtaining enlightenment and deliverance, the Bodhisattva Siddhārtha practiced right effort, endurance, and patience. Wanting to attain enlightenment and become the Buddha, the Bodhisattva had to start from a person of Dependent Arising (S. pratītyasamutpāda; P. paticcasamuppāda). Building on this person, the Bodhisattva cultivated and found the substance of holiness, that of solidity and relaxation, peacefulness and happiness. Leaving go of this person, the Bodhisattva did not find the substances. As the enlightened and awakened Practitioner, the Bodhisattva found out the light of the truth through the application and practice of right view, right though, right patience, purification, and transformation of afflictions of greed, anger, delusion, etc.   

Therefore, Buddhism has always taught people who cultivate, transform, and change their karmas are the key factors leading to enlightenment. Depending on a supreme being to search out enlightenment in him, practitioner will never find it. Depending on an interdependent co-arising person to cultivate, to purify, and to transform afflictions and leaks, practitioner can find enlightenment, deliverance, and Buddha nature in himself or herself.

Bodhisattva Siddhārtha, who cultivated well, found the light of enlightenment in ignorance and wrong view, found bodhi in afflictions, happiness in suffering, the lotus in mud, and flowers in garbage, and found the Middle Way in the ascetic way of mortification and in sensual indulgence, etc. Conversely, cultivating asceticism together with Bodhisattva Siddhārtha, the five brothers of Añña Koṇḍañña, who did not cultivate well, did not discover the Middle Way, did not practice meditation and concentration perfectly like the Bodhisattva, and did not find enlightenment and deliverance in themselves. 

With patience and effort, with the spirits of great actions and great vows, the Bodhisattva found the light of enlightenment, the truth of suffering (Dukkha), and the path leading to transformation of suffering (Dukkha nirodha gāmini patipadā ariya sacca). This path is the Middle Path (Majjhimā Paṭipadā) that includes virtue, meditation, and wisdom, interrelated closely with “Right View, Right Thought, Right Speech, Right Action, Right Livelihood, Right Effort, Right Mindfulness, and Right Concentration.” At the aspect of literal meanings, the path is metaphorical as the eight-lane freeway of supporting each other like image and its shadow creating a useful means of transportation to help people travel easily. At the aspect of figurative meanings, it is the path of peace consisting of the eight methods of practice very practically for families, schools, and for society. If everyone applies and practices this path together in the daily life in accordance right with the dharma, they can bring the flowers and fruits of authentic joy and happiness to the many all over the planet. 

Inner mind and outer scene finished being discussed above. Next, we keep learning about the meanings of Mara’s army. Different from the visible realms of humans, maras belong to the invisible realms; army means a group of the many. According to the metaphorical teachings of Buddhism, Mara’s army symbolizes the negative seeds in our bodies and minds. For example, tiredness, laziness, indolence, looseness, licentiousness, hesitation, disheartenment, regression, greed, anger, delusion, violence, hatred, etc. are the negative habits. Right endurance, effort, courage, promotion, energy, vitality, tolerance, generosity, peacefulness, happiness, peace, insight, etc. are the positive habits.

As people of awakening, we recognize that the negative and positive seeds are always present in us from hour to hour, from day to day, from week to week, from month to month, and from year to year. Cultivation is the process of helping us purify and transform the negative seeds into the positive seeds by applying and practicing the Buddhadharma in our daily lives diligently, mindfully, and awakeningly. When we practice so, the negative seeds in us will be gradually transformed, the positive seeds in us will be developed, and the light of enlightenment in us will be clearly manifested.

Conversely, when we do not practice the Buddhadharma well, the positive seeds in us will be gradually reduced and lost, the negative seeds in us will rise up and increase quickly, Buddha nature and the light of enlightenment in us will be overshadowed and obscured. Those who practice the Buddhadharma well reap the flowers and fruits of very much peacefulness and happiness. Those who learn and practice it not well or slowly reap the flowers and fruits of very little peacefulness and happiness. The process of Dharma learning and practice is that of helping us achieve the light of enlightenment, peacefulness, and happiness in every minute, every hour, every day, and in different stages of life.              

According to the metaphorical senses, Mara’s army represents the mind of envy, discrimination, fearfulness, inferiority, not as good as other people, and fearing they are better than one. If a person does not cultivate or cultivates a little bit, Mara’s army in him or in her will appear easily, and vice versa, if a person cultivates diligently, Mara’s army in him or in her disappears gradually.

When the morning Star rose, the Bodhisattva Siddhārtha, who cultivated diligently, won mara’s army completely by ending defilements and negative habits in himself. At that time, his mind got suddenly illuminated, the light of enlightenment, peace, peacefulness and happiness in him had the ability to shine all over himself and other people right in this world.

Through the foregoing meanings, we see that the light of enlightenment and awareness originates from Dharma practice; stableness and calmness are derived from Dharma practice; peacefulness and happiness are also derived from Dharma practice. Along with Dharma practice, Dharma understanding, Dharma learning, Dharma meditation, Dharma concentration, Dharma happiness, Dharma propagation, and Dharma protection go together with Bodhisattva Siddhārtha. Throughout the Dharma practice, he had fully enough those qualities.

At this point, we should understand more that when one person is born in the world, he is full of eyes, ears, noses, tongue, body, and mind, his whole family is happy with him. When he grows up, studies, graduates, achieves talents, has a stable job, and gets married, he himself is not only happy, but his paternal and maternal families are also happy. The forgoing senses are mentioned about worldly person. Different from that person, Bodhisattva Siddhārtha, the monastic person, found the light of enlightenment, the truths of suffering, and the path of transformation of suffering beneath the Bodhi tree at Bodhgaya about the year 589 before the common calendar. In this world, not only all sentient beings, but also all insentient beings on the globe have got instilled the light of loving-kindness, compassion, wisdom, peace, and peacefulness in him.     

Bodhisattva Siddhārtha,

who had been determined to become the homeless Monastic,

obtained the path of awareness,

gained that of peace,

attained that of deliverance,

instructed living beings

to be on the right way

by the light of enlightenment,

by that of the Buddhadharma,

by that of the Sangha

of the World-Honored Buddha.

Many people cultivate his teachings together,

their families get happy.”

(The writer)

According to interdependent vision of Buddhism, a newborn Buddha, prince Siddhārtha, or Bodhisattva Siddhārtha, originates from the physical person of dependent arising and elements (Sanskrit pratītyasamutpāda; Pali paticcasamuppāda). Through his cultivation of right effort, endurance, meditation, and concentration, depending this physical person, Bodhisattva Siddhārtha, finding out the light of enlightenment from himself, taught and benefited other people. Therefore, when this person was born, not only are the people and his royal family in Kapilavatthu of ancient India, a part of Nepal today, happy and glad, but living things and living beings all over the planet are happy and glad as well.

There are the two following main reasons: First, King Suddhodana and Queen Māyādevī, when over 40 years old, had a first-born child named Siddhārtha, a fully contented person with the sufficiency of virtue and wisdom. Both the King and the Queen have dedicated the most precious person to this earth in the history of human thought. Indeed, this fully contented person always has whosome mind, wholesome thoughts, and wholesome words to bring the light of peace, loving-kindness, compassion, wisdom, enlightenment, deliverance, peacefulness and happiness to the many all over the planent.

At the present day, with right confidence in Triple Gem (the Buddha, the Dharma, and the Sangha), those who have enough wholesome conditions to learn, understand, teach, practice, and apply the Buddhadharma in their daily lives, they themselves have the ability to offer their virtue and wisdom to their families, Temples, relatives, and to society. When understanding and practicing so, they have the capacity to contribute to building their peaceful homeland, happy families, and a realm of pure land right in this world.

Second, after prince Siddhārtha was born, receiving the invitation from king Suddhodana, seer Asita and Añña Koṇḍañña, two renowned hermits at that time, were invited to the court of Kapilavatthu to foretell the future for the prince. They both predicted that when growing up, the prince who would undoubtedly abandon the path to make a king, decide to choose the path of a homeless monastic, understand impermanent enlightenment, cultivate meditation, concentration, become the perfectly enlightened One, and bring peacefulness and benefit to human beings.

Indeed, the seer Asita’s and Asita and Añña Koṇḍañña’s predictions, which were the unique prophecies in the history of Buddhism and humankind, later on became true. With the spirits of self-cultivation, self-deliverance, self-enlightenment, self-support, and selfless-support, the prince Siddhārtha, who grew up, understood impermanent enlightenment, left his royal family, was determined to leave his royal family for a religious life and became the Buddha, titled Sakayanuni. In Sanskrit, Muni means a quite sage, Sakya belongs to a royal clan; Sakyamuni means a quiet Sage of sakyan clan. Buddha mean the fully enlightened or awakened One. Thus, Sakyamuni Buddha means the fully enlightened One, who had the potential to end defilements and ignorance, founded Buddhism, and brought the flowers and fruits of love and peace to living things and living beings all over the planet.

With the seeds of enlightenment through many lives, with the lineage of the sages through many eons (Kalpas), when Bodhisattva Siddhārtha becomes the Buddha, the light of his enlightenment, loving-kindness, compassion, and peace has been widely spread over the world. This light, which is equal, does not discriminate, and does not prevent anyone at all. Those who have enough wholesome opportunity to study, to practice, and to apply the Buddhadharma in their daily lives diligently, mindfully, and consciously have the ability to reap the flowers and fruits of peacefulness and happiness right here and right now in the present life. This is special characteristic of Buddhism rarely found or not found in other religions.

To sum up, through the above-mentioned things, we know that the light of enlightenment originates from the enlightened cultivation of Bodhisattva Siddhārtha. When he became the Buddha, the fully enlightened One, along with his disciples, messengers of peace, kept going on the way, set the wheel of the Dharma in motion to spread the light of enlightenment and peace to the many all over India.

Today, the light of enlightenment and peace has been not only spread in India, but also everywhere throughout the world. Wherever the light of enlightenment has been spread, there people live stably in the path of awakening and enlightenment, they have never met discrimination, distinction of race, and division of caste. Wherever Buddhism has been spread, there, with practice and application of the Buddhadharma in their lives, people will live more genly and better. Wherever Buddhism has been present, there Buddhism, the path of peace, will have never caused a religious war for anyone. Likewise, wherever Buddhism has been present, there, homeland, whose people, villages, and hamlets are not only tranquil, but nature and all animals are also peaceful and happy, because sentient beings and insentient beings have got instilled the teachings of enlightenment, loving-kindness, compassion and wisdom of peace religion. When understanding and practicing so, we together contribute to bringing authentic peacefulnesss and happiness to the many all over this planet.

May you and your loved ones be well and happy with the light of the World-Honored Buddha’s peace and enlightenment.

Namo the Original Master Sakyamuni Buddhaya

By Thích Trừng Sỹ

 

 

 

 

 

Ánh Sáng Giác Ngộ Qua Cái Nhìn của Bồ-tát Tất-đạt-đa

Xưa và nay, trong lịch sử của nhân loại, tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân. Nhờ trải qua các quá trình kham nhẫn, tu, học, và giúp đỡ cho tự thân và tha nhân như vậy, thì họ mới có thể trở thành những nhà khoa học, toán học, văn học, triết học, đạo học, v. v… Bồ-tát Tất-đạt-đa Gautama,[9] một vị đạotâm linh hoàn hảo, có đầy đủ đức hạnh, từ bi, và trí tuệ, trải qua 6 năm tu khổ hạnh rừng già với năm anh em Ông A-nhã Kiều-trần-như. Sau một thời gian tầm sư học đạo, Bồ-tát, một con người xuất chúng bằng xương bằng thịt, đã tìm ra chân lý bằng cách thiền định tại Bồ-đề-đạo-tràng suốt 49 ngày đêm, và chứng ngộ viên mãn dưới cội cây Bồ-đề. Lúc đó, Bồ-tát trở thành Phật hiệu là Thích-ca-mâu-ni, một đức Phật lịch sử, có mặt trong lịch sử tư tưởng của nhân loại, được chư thiênloài người tôn kính, có khả năng đem ánh sáng giác ngộ, tình thương, và hòa bình đích thực cho pháp giới chúng sanh trên khắp hành tinh này.   

 

The Light of Enlightenment through Bodhisattva Siddhārtha’s vision

Anciently and presently, in the history of humankind, all religious leaders and secular leaders want to achieve good results in life, first, they have to experience the processes of endurance, effort, cultivation, learning, training themselves, helping, and bringing the benefits to other people. Thanks to overcoming the processes of patience, cultivation, learning, and helping themselves and others like this, they can become scientists, mathematicians, writers, philosophers, religious leaders, etc. Bodhisattva Siddhārtha Gautama,[10] a perfect spiritual Master, who was full of the qualities of virtue, loving-kindness, compassion, and wisdom, spent 6 years practicing asceticism in an old jungle with five brothers of Elder Aññā Kondañña. After a while looking for teachers to study, Bodhisatva, an outstanding person in the flesh and bone, found out the truth by meditating in Bodhgaya throughout 49 days and nights, and got perfect enlightenment beneath the Bodhi tree. At that time, Bodhisattva became the Buddha titled Sakyamuni, the historical Buddha, present in the history of human thought, respected and honored by gods and human beings, and had the capacity to bring the light of enlightenment, love, and authentic peace to all living things and living beings all over this planet.

Qua những ý nghĩa tổng quát được đề cập ở trên, người viết mạnh dạn đặt tựa đề cho bài viết này là “Ánh Sáng Giác Ngộ qua Cái Nhìn Tuệ Giác của Bồ-tát Tất-đạ-đa.” Cái nhìn ở đây được hiểu là cái nhìn kết quả của việc thực tập thiền quántuệ giác, có khả năng thấy rõ tiến trình kham nhẫn, tinh tấn, tu tập thiền định, thành đạo, hoằng pháp, và giáo hóa chúng sanh của Bồ-tát Tất-đạ-đa (Bodhisattva Siddhārtha). Trong chủ đề của bài viết này, chúng ta bắt gặp các cụm từ như “Ánh Sáng, Giác Ngộ, Bồ-tát, Tất-đạt-đa.” Sau đây, người viết lần lượt giải thích từng thuật ngữ một và tìm hiểu ý nghĩa và nội dung của các thuật ngữ trên.

Through the above mentioned general meanings, the writer boldly titles this writing “The Light of Enlightenment through Bodhisattva Siddhārtha’s Vision.” This vision, which is here understood as the resultant vision of practicing contemplation meditation and insight, has the ability to clearly see the process of endurance, diligence, cultivation of meditation and concentration, enlightenment attainment, Dharma propagation, and the teaching of human beings of Bodhisattva Siddhārtha. In the title of this writing, we encounter words like “Light, Enlightenment, Bodhisattva, Siddhārtha.” Here, the writer explains in turn each terminology and learn about the meanings and contents of the foregoing terminologies.        

Thông thường, khi đề cập tới ánh sáng, người ta nghĩ tới ánh sáng mặt trời, ánh sáng mặt trăng, ánh sáng sao hôm, sao mai; áng sáng đèn điện, đèn xe, đèn ne-on, v. v … Các loại ánh sáng này là ánh sáng thiên nhiên, ánh sáng vật chất, hay ánh sáng nhân tạo mà thôi. Khác với các loại ánh sáng trên, ánh sáng được thảo luận ở đây chính là ánh sáng giác ngộ, xuất phát từ sự tu tập thiền định, kham nhẫn, tinh tiến, thanh lọc, và chuyển hóa phiền não thành giác ngộ của Bồ-tát Tất-đạt-đa.

Normally, when referring to the light, people often think about sunlight, moonlight, evening star light, morning star light, electric lights, car lights, neon lights, etc. These kinds of lights are natural light, material lights, or artificial lights. Different from kinds of those lights, the light here discussed mainly is the light of enlightenment, originates from Bodhisattva Siddhārtha’s meditation practice, endurance, effort, purification, and defilement transformation into enlightenment.

Nhờ tu tập thiền định thuần tịnh, chánh niệm, và tỉnh thức, Bồ-tát có khả năng đoạn tận vô minh, phiền não, lậu hoặc, chấp thủ, v.v… thành tựu giác ngộ, và chấm dứt vòng tái sinh luân hồi.

Thanks to practicing meditation-concentration purely, mindfully, and consciously, Bodhisattva who had the ability to terminate ignorance, defilements, leaks, attachments, etc., achieved enlightenment, and ended the cycle of death and rebirth.

Như vậy, ánh sáng giác ngộ được đề cập ở đây tượng trưng cho đạo Phật, đức Phật, chánh pháp, và các vị đệ tử (Tăng đoàn). Đạo Phật là đạo hòa bình, đức Phật là vị Vua hòa bình, chánh phápcon đường hòa bình, và các vị đệ tử là những vị sứ giả hòa bình.[11] Hòa bình thực sự có mặt khi nào chúng ta học, hiểu, hành trì, và ứng dụng Phật pháp vào trong đời sống hằng ngày một cách thích hợp trong các địa phương, trú xứ, và quốc độ khác nhau. Khi chúng ta hiểu và thực hành được như vậy, thì ánh sáng giác ngộ của đức Thế Tôn có khả năng chiếu sáng trên khắp thế gian này. Hơn nữa, chúng ta biết trong yếu tố giác ngộ còn có các chất liệu khác như chánh niệm, tỉnh thức, vững chãi, thảnh thơi, thong dong, và tự tại. Thành tựu được các chất liệu ấy, hành giả chắc chắn sẽ có an lạc ngay bây giờ và ở đây trong giờ phút hiện tại.

Thus, the light of enlightenment mentioned here symbolizes Buddhism, the Buddha, the Dharma, and his disciples (Sangha). Buddhism is the religion of peace, the Buddha is the King of peace, the Dharma is the path of peace, and the disciples are the messengers of peace.[12] Peace is authentically present whenever we learn, understand, practice, and apply the Buddhadharma in our daily lives appropriately in various localities, regions, and countries. When we understand and practice so, the light of the World-Honored One’s enlightenment has the ability to shine all over the world. Moreover, we know that in the factors of his enlightenment, there are still other substances such as right mindfulness, awareness, stableness, relaxation, carefreeness, and calmness. Achieving those qualities, practitioners will undoubtedly obtain peacefulness and joyfulness right here and right now in the present moments.

Giác ngộ có nhiều ý nghĩa và giai đoạn khác nhau như sau:

Giác ngộ của hành giả phàm phu, qua quá trình tu tập, chuyển hóa phiền não, áp dụng, và thực hành Phật pháp vào trong đời sống hằng ngày của mình, chúng tathể đạt được giác ngộ từng phần và dần dần. Giác ngộ của hành giả Bồ-tát, qua quá trình tu tập, đoạn tận hết các phiền não, và khám phá được khổ (Dukkha), khổ tập (Dukkha Samudaya), khổ diệt (Dukkha Nirodha), và con đường đưa đến khổ diệt (Dukkha Nirodha Gāminī Patipadā),[13] Bồ-tát Tất-đạt-đa có khả năng đạt được giác ngộ toàn phần và toàn hảo.

Enlightenment contains many different meanings and stages as follows:

Enlightenment of ordinary practitioners, through the process of cultivating, transforming defilements, applying, and practicing the Buddha Dharma in our daily lives, we can obtain enlightenment partially and gradually. Enlightenment of the Bodhisattva practitioner, through the process of having cut off afflictions, and discovering the truth of suffering (Dukkha), the origin of suffering (Dukkha Samudaya), the cessation of suffering (Dukkha Nirodha), and the path leading to the cessation of suffering (Dukkha Nirodha Gāminī Patipadā),[14] Bodhisatta Siddhārtha had the ability to attain enlightenment fully and perfectly.    

Trong quá trình tu tập của Bồ-tát Tất-đạt-đa, với chánh niệm và tỉnh giác, vững chãithảnh thơi, Bồ-tát không những thành tựu giác ngộ giải thoát trong nhiều đời sống quá khứ, mà ngay trong hiện đời, ngài là hiện thân một đức Phật sơ sinh, và cũng là đức Phật Thích-ca-mâu-ni (Sakyamuni Buddha) sau này. Có lần nọ, vua Tịnh Phạn, thân phụ của Ngài, đã hai lần chắp tay chào xá con mình và một lần đảnh lễ đức Phật; đó là,  

1.         Vua chắp tay xá chào con mình trong lúc đạo Sĩ A-tư-đà (Asita) đang xem tướng cho thái tử sơ sinh. Sau này, thái tử sẽ đi tu và trở thành một Bậc tỉnh thứcgiác ngộ viên mãn, có khả năng đưa đường và chỉ lối hòa bình, an lạchạnh phúc cho số đông trên khắp hành tinh này.

In the process of his cultivation, with right mindfulness and awareness, stableness and tranquility, Bodhisattva Siddhārtha not only achieved enlightenment of liberation in his past lives, but also right in his present life, he was the embodiment of a newborn Buddha, and also Sakyamuni Buddha later. On one occasion, king Suddhodana, his father, had twice greeted his son with respectfully joined hands and once paid homage to the Buddha; that is,

1.         The king put his hands together and greeted his son while the seer Asita was considering prince’s physiognomies. The prince who would later leave the royal family for a religious life became the fully awakened and enlightened One, had the ability to show the path of peace, joyfulness and happiness to the many all over this planet.

2.         Trong buổi lễ cày cấy, vua chắp tay xá chào con mình trong lúc thái tử 9 tuổi đang ngồi thiền dưới cây hồng táo, chiêm nghiệm, và thấy chúng sanh đang tranh giành, giết, và ăn thịt lẫn nhau. Với tâm từ sẵn có, thái tử khởi tâm thương yêu đến tất cả chúng sinh muôn loài.

2.         In the ceremony of plow and cultivation, the king put his hands together and greeted his son while the prince at the age of 9 meditating beneath a pink apple tree contemplated, and saw living beings fighting, killing, and eating one another. With his ready compassion heart, the prince spread his loving heart to all living things and living beings.   

3.         Vua đảnh lễ đức Phật trong khi đức Phật đang đi khất thực trên đường về thăm thành Ca-tỳ-la-vệ, nơi đây các vị hoàng thân quốc thích trưởng thượng trong hoàng cung sinh tâm cao ngạo và cho rằng đức Phật chỉ là con cháu của họ mà thôi. Lúc ấy, đọc được tư tưởng của các vị, đức Phật liền dùng năng lực nước từ bi và lửa trí tuệ nhiếp phục và cảm hóa được các vị. Lúc đó, những người này sinh tâm cung kínhđảnh lễ đức PhậtTăng đoàn.

3.         The king paid homage to the Buddha while the Buddha was going for alms on the way back to visit Kapilavastu City, where his elderly imperious relatives in the royal palace bore their minds of arrogance and thought that the Buddha was only their descendant. At that time, reading their thoughts, the Buddha used energies of compassionate water and wisdom fire to collect and convince them. At that time, these people aroused their respectful hearts and paid homage to the Buddha and his Sagnha.

Như vậy, chúng ta thấy rằng khả năng giác ngộ bao gồm chất phàm và chất thánh luôn có mặt trong thân tâm của họ. Trong chất phàm có chất thánh; trong chất thánh có chất giác ngộgiải thoát. Chất thánh trong Phật giáo được hiểu là Phật tánh hay chất Phật. Tuy nhiên, xét về khía cạnh tuyệt đối, chúng ta thấy khả năng giác ngộ trong họ, ở thánh Phật tánh không tăng, ở phàm Phật tánh không giảm.

Thus, we can see the potential for enlightenment comprising the secular substance and the holy substance, which are always present in their bodies and minds. In the secular substance, there is the holy substance; in the holy substance, there are the substance of enlightenment and liberation. The holy substance in Buddhism is understood as Buddha nature or Buddha substance. However, considering the absolute aspect, we see the potential for enlightenment within themselves, in the holy substance, Buddha nature is no more, and in the secular substance, Buddha nature is no less.

Hiểu rộng thêm nữa là, theo quan điểm từ bi của Phật giáo, ở trong con người và con vật, Phật tánh đều có, và ngay cả ở trong các loài vô tình, Phật tánh cũng đều có mặt. Hiểu rõ được ý nghĩa như vậy, thì chúng ta có thể vun trồng và tưới tẩm Phật tánh trong ta và trong các loài hữu tình và vô tình bằng cách bảo vệ môi sinh, tôn trọng sự sống của muôn sự và muôn vật bằng cách thực hành điều đạo đức thức thứ nhất của đạo giác ngộ. Dù ở địa vị phàm phu hay thánh quả, dù ở các loài vô tình hay hữu tình, nếu chúng ta tu tập tâm từ bi và trí tuệ tốt đẹp, thì ánh sáng Phật tánh trong ta hiển bày

Understanding more broadly, according to the standpoints of Buddhist loving-kindness and compassion, in human beings and in animals, Buddha nature is present, and even in insentient beings, Buddha nature is also present. Understanding the meanings clearly like this, we can cultivate and water Buddha nature in us, in sentient beings, and in insentient beings by protecting the environment, respecting their lives of all living things and living beings by practicing the first ethical training of Buddhism, the path of enlightenment. Whether in secular position or in holy position, whether in kinds of insentient beings or in those of insentient beings, if we practice loving-kindness, compassion, and wisdom well, the light of Buddha nature within us visibly.

Tuy nhiên, xét về khía cạnh tương đối, chúng ta biết sự biểu hiện Phật tánh tùy theo mức độ tu tập của mỗi hành giả phàm phuhành giả Bồ-tát. Ở thánh, Phật tánh tỏa sáng như ánh trăng Rằm, ở phàm, Phật tánh tỏa sáng như ánh trăng khuyết. Đối với hành giả Bồ-tát, qua quá trình tu tậpchứng ngộ, Phật tánh có thể tỏa sáng 100%, vì phiền nãolậu hoặc đã được đoạn diệt. Đối với hành giả phàm phu, qua quá trình tu tập, thanh lọc và chuyển hóa, Phật tánh có thể tỏa sáng khoảng …40, 60, 80…%, vì phiền nãolậu hoặc đang và cuối cùng sẽ được đoạn diệt hoàn toàn.

However, considering relative aspect, we know the manifestation of Buddha nature depends on the cultivation level of every ordinary practitioners and Bodhisattva practitioners. In the holy One, Buddha nature shines like the full Moon, in the human being, Buddha nature shines like the crescent Moon. Toward Boddhisattva practitioners, through the process of cultivation and enlightenment, Buddha nature within them can shine 100 percent, because their defilements and leaks have been annihilated. Toward ordinary practitioners, through the process of cultivation, purification, and transformation, Buddha nature within them can shine …40, 60, 80 percent, etc., because their defilements and leaks are being annihilated and eventually will be totally annihilated.

Trăng mờ vì mây, Phật tánh mờ vì phiền não; mây tan nhờ gió, phiền não tham, sân, si… đoạn diệt nhờ tu tậpchuyển hóa. Tu tập có nghĩa là quá trình nhận diệnchuyển hóa các phiền não tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến... Khi các phiền não đã được chuyển hóađoạn diệt, thì ánh sáng giác ngộ của hành giả Bồ-tát tròn sáng và hiển bày. Ở điểm này, Bồ-tát Tất-đạt-đa, người đã chứng ngộ viên mãn, và đáng được thế gian quy ngưỡngtôn kính.

The moon is dim because of clouds, Buddha nature is dim because of afflictions; clouds are dispersed by the wind, afflictions of desire, anger, delusion, etc., are annihilated by cultivation and transformation. Cultivation means the process of recognizing and transforming defilements of greed, anger, delusion, arrogance, doubt, wrong view, etc. When difilements are transformed and annihilated, the light of enlightenment of the Bodhisattva practitioner shines brightly and fully. At this point, Bodhisattva Siddhārtha, attaining perfect enlightenment, is worthy to be adored and respected by the world.

Khi thảo luận ở đây, ánh sáng giác ngộ được hiểu là ánh sáng thiền định, ánh sáng tuệ giác, ánh sáng hòa bình, ánh sáng đại hùng, đại lực, và đại từ bi do chính Bồ-tát Tất-đạt-đa khám pháchứng ngộ. Nó không từ trên trời rơi xuống, nó không phải một món quà do một đấng thần linh ban tặng. Nó do chính Bồ-tát nếm và trải nghiệm qua sự tu tập, thực hành, và chứng ngộ tâm linh. Nó rất vi diệu, thù thắng, và thiết thực hiện tại, dành cho những ai quan tâm, học hỏi, hành trì, và ứng dụng tới Phật pháp vào trong đời sống hằng ngày của mình để đem lại hòa bình, an vui, và hạnh phúc cho tha nhân ngay tại thế gian này.

As discussed here, the light of enlightenment is understood as the light of meditation, concentration, that of insight, that of peace, that of great heroism, great power, and great loving-kindness and compassion discovered and obtained enlightenment by Bodhisattva Siddhārtha. It does not fall down from heaven, it is not a gift granted by a god. It is tasted and experienced by the Bodhisattva through his cultivation, practice, and spiritual attainment. It is very marvelous, surpassing, and practical in the present, intended for those who care about, learn, practice, and apply the Buddhadharma in their daily lives to bring peace, joy, and happiness to other people right in the world.  

Thực vậy, ánh sáng giác ngộ không chế tác bằng tham, sân, si, vô minh, tà kiến, hận thù, và chiến tranh. Nó được chế tác bằng chánh kham nhẫn, tinh tấn, nỗ lực, tinh thần tự tu, tự độ, tự ngộ và tự giải thoát qua việc thực tậpứng dụng các chất liệu từ bi, trí tuệ, hòa bình, thiền định, và tuệ giác cho số đông ngay bây giờ và ở đây trong cuộc sống hiện tại. Các chất liệu an lạc này có khả năng khơi dậy và đánh thức những hoa trái tuệ giác trong thân tâm của Bồ-tát trở nên bừng sáng.

Indeed, this enlightenment light is not created by greed, anger, delusion, ignorance, wrong view, hatred, and war. It is created by right endurance, effort, diligence, the spirits of self-cultivation, self-support, self-enlightenment, and self-liberation through practicing and applying the substances of loving-kindness, compassion, wisdom, peace, meditation, concentration, and insight to the many right here and right now in this present life. These peaceful substances have the ability to arouse and awaken flowers and fruits of insight in Bodhisattva’s mind and body to become illuminated.

Bồ-tát trong tiếng Phạn (Sanskrit) được viết là Bodhisattva; Bồ-đề (Bodhi) có nghĩa là lớn, là giác ngộ, hay là tỉnh thứcSattva có nghĩa là một chúng sanh, một hữu tình, hay là một con người giác ngộ. Vậy Bồ-tát (Bodhisattva) có nghĩa là một chúng sinh đã đạt được sự giác ngộtỉnh thức nguyện đi trên đường vui, tu tập, và giải thoát để làm lợi ích cho tự thân và cho tha nhân ngay cuộc đời này.

Bodhisattva is a Sanskrit word; Bodhi means greatness, enlightenment, awakening or awareness; Sattva means a being, a sentient being, or an enlightened human being. Thus, Bodhisattva means a being who has attained enlightenment and awareness vows to be on the way of joy, cultivation, and liberation to benefit for oneself and for other people right in this life.

Trên lộ trình hướng đến giác ngộgiải thoát, Tất-đạt-đa là một vị Bồ-tát bằng xương bằng thịt có thật trong lịch sử tư tưởng nhân loại có đầy đủ phúc đứctrí tuệ, dũng mãnhtinh tấn, nghị lựckham nhẫn, tìm ra chân lý và ánh sáng giác ngộ sau này. Chính vị Bồ-tát này đã tu tập thiền định hoàn hảo, trở thành một bậc đạo Sư tâm linh cao thượng, dẫn dường chỉ lối an vui và hòa bình cho pháp giới chúng sanh trên quả đại cầu này.  

On the route to leading to enlightenment and deliverance, Siddhārtha, who was the Bodhisattva in the flesh and bone actually in the history of human thought, was full of merit and wisdom, courage and effort, perseverance and patience, found the truth and the light of enlightenment later on. It was the Bodhisattva who practiced meditation and concentration perfectly became the nobly spiritual Master, instructed, and showed the way of joy and peace to all living things and living beings on earth.

Phàm phu chúng ta, vì nghiệp lực, mà sinh ra nơi đời, nên mỗi người gặp nhiều hoàn cảnh khác nhau, căn tánh khác nhau, gia đình khác nhau, mức độ giàu nghèo khác nhau… không ai giống ai cả. Thái tử Tất-đạt-đa, một vị Bồ-tát đích thực, vì nguyện lực, mà sinh ra nơi đời trong một gia đình hoàng tộc, giàu sang, và quyền quý ở thành Ca-tỳ-la-vệ (P. Kapilavatthu S. Kapilavastu), một phần của Nê-pan ngày nay.[15]

We ordinary beings, because of the karma power, were born, we each encounter different situations, different natures and characteristics, different families, different levels of wealth and poverty, etc., no one is alike at all. Prince Siddhārtha, who is an authentic Bodhisattva, because of the vow power, was born in the world at his royal, wealthy, and powerful family in Kapilavatthu, a part of Nepal today.[16]

Lớn lên, thái tử lập gia đình với công chúa Da-du-đà-la (Yasodharā), và có người con trai duy nhất là La-hầu-la (Rāhula). Cùng với người hầu cận tên là Sa Nặc, một hôm thái tử đi viếng thăm bốn cửa thành, thấy bốn cảnh thật của cuộc đời; đó là, người già, người bệnh, người chết, và vị ẩn sĩ. Cảnh thật thứ tư là vị khất sĩ tượng trưng cho cách sống thong dongtự tại, tạo ấn tượng sâu sắc trong tâm khảm của thái tử, và tạo nguồn cảm hứng cho thái tử sau này trở thành một vị xuất sĩ không nhà sống trong môi trường thiên nhiênnúi rừng.

Growing up, the prince got married with Yasodharā, and had a unique son called Rāhula. Along with his attendant named Channa, one day the prince went to visit the four gates of royal palace, and saw four scenes of reality of life; that is, an old person, a sick person, a dead person, and an ascetic. The fourth scene, which was the ascetic, represented a calm and free way of life, made a deep impression in the prince’s heart, and created the inspirational sources for the prince later on to become a homeless monastic living in natural environment and exciting mountain and forests. 

Thực hànhtrải qua 6 năm khổ hạnh tại hang động Mahakala trên núi núi Tượng Đầu (Dhungeshwari), mỗi ngày Bồ-tát Tất-đạt-đa chỉ ăn một ít hoa quả, và dần dần thân thể của Ngài chỉ còn da bọc xương mà thôi. Khi khám phá lối tu khổ hạnh này không đưa đến kết quả an lạcgiải thoát, Bồ-tát quyết tâm thực hành theo phương pháp Trung Đạo: (không tham đắm dục lạc, và không khổ hạnh ép xác) bằng cách thọ nhận và dùng bát cháo sữa của nàng Su-dà-ta (Sujata) cúng dường. Sức khỏe của Bồ-tát trở nên bình phục. Sau đó, Bồ-tát thọ nhận một bó cỏ cúng dường của người nông phu, đi thẳng tới Bồ-đề-đạo-tràng (Bodhgaya), trải qua nhiều ngày đêm thiền định dưới cội cây Bồ-đề. Cuối cùng, ngài chiến thắng ma quân (Ma quân tượng trưng cho các tập khí tham ái, sân giận, si mê, chấp thủ, v.v… trong nội tâm), và giác ngộ viên mãn.

Practicing and spending six years of asceticism in the Mahakala cave in Dhungeshwari mountain, everyday the Bodhisattva only ate a couple of fruits, and gradually his body only remained skins covering bones. When discovering this ascetic way did not lead him to the result of peaceful joy and deliverance, Bodhisattva Siddhārtha was determined to practice the method of the Middle Path (Pali: Majjhimā Paṭipadā; Sanskrit: Madhyamā Pratipad) (no sexual indulgence and no ascetic mortification) by receiving and to using a milky gruel bowl offered by Ms. Sujata. His health got better and better. After that, he received a bunch of grass from a Braminic farmer offered, and then he went straight to Bodhgaya, where he spent many days and nights meditating beneath the Bodhi tree. Finally, he defeated Mara’s armies (Mara stands for the habits of one’s own greed, anger, delusion, and clinging), and obtained perfect enlightenment.

Trong quá trình tu tập và hướng tới giác ngộ, Bồ-tát đã trải qua không chỉ sự kham nhẫn của nội tâm, mà còn sự kham nhẫn của ngoại cảnh; ngoại cảnh là cảnh bên ngoài, cụ thểthời tiết và môi trường thiên nhiên. Ở Ấn Độ, vào mùa nóng, nhiệt độ có thể lên tới 45 độ C. (45% C. = Celsius/ Centigrade = 120 degrees F. / Fehrenheit), và vào mùa lạnh, nhiệt độ có thể dưới 0 độ C. (0% C. = 0 degrees C. Celsius/ Centigrade = 32 degrees F. Fehrenheit). Trong thời đại ngày nay, sống ở trong nhà, chúng ta có đủ quần áo, chăn, gối, nệm, lò sưởi, máy điều hòa… để bảo vệ chúng ta rất ấm áp, nhưng đôi lúc chúng ta còn cảm thấy lạnh, nóng, và khó chịu.  

In the process of cultivation and leading to enlightenment, the Bodhisattva overcame not only the patience of inner mind, but also that of the outer scene; outer scene is the external scene, specically weather and natural environment. In India, in the hot season, the temperature can rise above 45 degrees Celsius. (45% C. = Celsius/ Centigrade = 120 degrees F. Fehrenheit), and in the cold season, the temperature can be below 0 degrees Celsius. (0% C. = 0 degrees C. Celsius/ Centigrade = 32 degrees F. Fehrenheit). In the present age, living at home, we have enough clothes, blankets, pillows, mattresses, heaters, air-conditioner, etc. to protect us very well, but sometimes we still feel cold, hot, and uncomfortable.

Bây giờ, chúng ta hãy suy nghĩ tiếp về Bồ-tát Tất-đạt-đa (Bodhisattva Siddhārtha), người đã sống đời sống không gia đình, ăn hoa quả, uống nước mưa, nước suối để nuôi thân, và đã dùng tỉnh thức, chánh niệm, và thiền định để nuôi tâm… Ban đêm, ngài ngủ dưới gốc cây, ban ngày, ngài đi khất thực. Ngài luôn dùng môi trường thiên nhiên làm nhà, dùng cây và lá rừng làm giường chiếu, dùng trăng sao làm đèn, dùng sự tu tập thiền, định, chánh niệm, và tỉnh giác làm món ăn tinh thần cho thân tâm, và dùng việc hoằng dương chánh pháp làm lợi ích cho tha nhân.

Now, we would like to keep thinking about the Bodhisattva Siddhārtha, who lived his homeless life, ate flowers and fruits, drank rainwater, spring water to nourish his body, and used awareness, mindfulness, meditation, and concentration to nurture his mind, etc. By night, he slept beneath a tree and by day, he went for alms. He used the natural environment as home, used trees and forest leaves as beds, used the moon and stars as lamps, used cultivation of meditation, concentration, mindfulness, and awareness to make the spiritual food for his body and mind, and used Dharma propagation to benefit other people.  

Tiếp đến là nội tâm, phần quan trọng và sâu kín nhất của con người, được hiểu là tàng thức (Ālaya Vijñāna), hàm chứa các hạt giống thiện và bất thiện. Các hạt giống thiện gồm có chánh kham nhẫn, chịu đựng, khắc phục, chọn lọc, vững chãi, tinh tiến, nghị lực, sức mạnh tinh thần, niềm tin bất thoái, ánh sáng giác ngộ, tuệ giác... Các hạt giống bất thiện gồm có giải đãi, biếng nhác, thoái lui, do dự, lưỡng lự, nhu nhược, yếu đuối, si mê, vô minh, v.v…

The next is inner mind, which is the most important and deepest human part, is understood as storehouse of consciousness (Ālaya Vijñāna), contain the the good seeds and the non-good seeds. The good seeds consist of right patience, endurance, overcoming, selection, solidity, diligence, courage, spiritual strength, unshakable confidence, the light of enlightenment, insight, etc. The non-good seeds are comprised of slackness, laziness, regression, hesitation, feebleness, weakness, delusion, ignorance, etc.

Tu tập là quá trình thực tập kham nhẫn, nuôi dưỡng, chọn lọc, thăng tiến, và chuyển hóa từ khó khăn thành an vui, khổ đau thành hạnh phúc, vô minh thành minh…. Tuy nhiên, con người chúng ta, khi gặp thời tiết khắc nghiệt, ăn uống thiếu thốn, ngủ nghỉ lạnh lẽo. v. v…, thường thì chúng taxu hướng sống chán nản và thoái lui. Nhưng, Bồ-tát Tất-đạt-đa luôn hoan hỷ đón nhận những cảnh khó khăn, khổ hạnh, và kham nhẫn, xem những nghịch cảnh này tạo thành sức mạnh tinh thần, ý chí dũng mãnh, tinh tiến, và nghị lực phi thường, và hướng Bồ-tát tới giác ngộgiải thoát tâm linh sau này.

Cultivaton is the process of patience practice, nurture, selection, advancement, and the transformation from difficulties into peacefulness, suffering into happiness, ignorance into clear understanding, etc. However, we humans, when encountering severe weather, eating deficiently, sleeping coldly, etc., usually, tend to live discouragingly and downheartedly. But, Bodhisattva Siddhārtha, who was always happy to welcome the difficulties, asceticism, and patience, considered these adversities to create his mental strength, strong will, effort, and extraordinary energy, and lead him to spiritual enlightenment and deliverance later on.

Với tinh thần đại hùng, đại lực, đại bi, và đại trí, khi đạt được giác ngộgiải thoát, thì Bồ-tát Tất-đạt-đa đã thực hành chánh tinh tấn, kham nhẫnkiên nhẫn. Muốn đạt giác ngộthành Phật, Bồ-tát phải bắt đầu từ con người duyên sinh (S. pratītyasamutpāda; P. paticcasamuppāda). Nương vào con người này, Bồ-tát tu tậptìm ra chất thánh, chất vững chãithảnh thơi, an vui và hạnh phúc. Lìa con người này ra, Bồ-tát không tìm được các chất liệu ấy. Là hành giả giác ngộtỉnh thức, Bồ-tát đã tìm ra ánh sáng chân lý qua việc áp dụngthực tập chánh kiến, chánh tư duy, chánh kham nhẫn, thanh lọc, và chuyển hóa các phiền não tham, sân, si…

With the spirits of great hero, great power, great compassion, and great wisdom, when obtaining enlightenment and deliverance, the Bodhisattva Siddhārtha practiced right effort, endurance, and patience. Wanting to attain enlightenment and become the Buddha, the Bodhisattva had to start from a person of Dependent Arising (S. pratītyasamutpāda; P. paticcasamuppāda). Building on this person, the Bodhisattva cultivated and found the substance of holiness, that of solidity and relaxation, peacefulness and happiness. Leaving go of this person, the Bodhisattva did not find the substances. As the enlightened and awakened Practitioner, the Bodhisattva found out the light of the truth through the application and practice of right view, right though, right patience, purification, and transformation of afflictions of greed, anger, delusion, etc.   

Chính vì vậy, đạo Phật luôn dạy con người tu tập, chuyển hóa, và chuyển nghiệp là yếu tố then chốt hướng tới giác ngộ. Nương vào một đấng tối cao nào đó để tìm kiếm giác ngộ nơi vị ấy, thì hành giả không bao giờ tìm thấy. Nương vào con người duyên sinh để tu tập, để thanh lọc, và để chuyển hóa phiền nãolậu hoặc, thì hành giả có thể tìm thấy giác ngộ, giải thoát, và Phật tánh nơi chính mình.

Therefore, Buddhism has always taught people who cultivate, transform, and change their karmas are the key factors leading to enlightenment. Depending on a supreme being to search out enlightenment in him, practitioner will never find it. Depending on an interdependent co-arising person to cultivate, to purify, and to transform afflictions and leaks, practitioner can find enlightenment, deliverance, and Buddha nature in himself or herself.

Bồ-tát Tất-đạt-đa, người tu giỏi, tìm thấy ánh sáng giác ngộtuệ giác trong vô minhtà kiến, thấy Bồ đề trong phiền não, hạnh phúc trong khổ đau, sen trong bùn, và hoa trong rác, và thấy con đường Trung Đạo trong khổ hạnh ép xác và trong tham đắm dục lạc. Ngược lại, cùng tu khổ hạnh với Bồ-tát, 5 anh em của A-nhã Kiều-trần-như, những người tu không giỏi, không tìm thấy được con đường Trung Đạo, không thực hành thiền định hoàn hảo như Bồ-tát, và không tìm thấy giác ngộgiải thoát nơi tự thân.

Bodhisattva Siddhārtha, who cultivated well, found the light of enlightenment in ignorance and wrong view, found bodhi in afflictions, happiness in suffering, the lotus in mud, and flowers in garbage, and found the Middle Way in the ascetic way of mortification and in sensual indulgence, etc. Conversely, cultivating asceticism together with Bodhisattva Siddhārtha, the five brothers of Añña Koṇḍañña, who did not cultivate well, did not discover the Middle Way, did not practice meditation and concentration perfectly like the Bodhisattva, and did not find enlightenment and deliverance in themselves. 

Với sự kham nhẫnnỗ lực, với tinh thần đại hạnhđại nguyện, Bồ-tát đã tìm ra ánh sáng giác ngộ, chân lý Khổ (Dukkha), và con đường đưa tới chuyển hóa khổ đau (Dukkha nirodha gāmini patipadā ariya sacca). Con đường này là con đường Trung Đạo (Majjhimā paṭipadā) bao gồm đạo đức, thiền định, và trí tuệ, tương tức mật thiết với Thấy Biết Chân Chánh, Tư Duy Chân Chánh, Nói Năng Chân Chánh, Hành Động Chân Chánh, Nghề Nghiệp Chân Chánh, Siêng Năng Chân Chánh, Nhớ Nghĩ Chân Chánh, và Chuyên Tâm Chân Chánh. Ở khía cạnh nghĩa đen, con đường này được ví như con đường xa lộ có tám làn xe hỗ tương với nhau như hình với bóng tạo thành một phương tiện giao thông hữu ích giúp người ta đi lại dễ dàng. Ở khía cạnh nghĩa bóng, đó là con đường hòa bình bao gồm tám phương pháp thực tập rất thiết thực cho gia đình, học đường, và cho cả xã hội. Nếu mọi người cùng nhau áp dụngthực hành con đường này vào trong đời sống hằng ngày đúng pháp, thì họ có thể đem lại những hoa trái an vui và hạnh phúc đích thực cho số đông trên khắp hành tinh này. 

With patience and effort, with the spirits of great actions and great vows, the Bodhisattva found the light of enlightenment, the truth of suffering (Dukkha), and the path leading to transformation of suffering (Dukkha nirodha gāmini patipadā ariya sacca). This path is the Middle Path (Majjhimā Paṭipadā) that includes virtue, meditation, and wisdom, interrelated closely with “Right View, Right Thought, Right Speech, Right Action, Right Livelihood, Right Effort, Right Mindfulness, and Right Concentration.” At the aspect of literal meanings, the path is metaphorical as the eight-lane freeway of supporting each other like image and its shadow creating a useful means of transportation to help people travel easily. At the aspect of figurative meanings, it is the path of peace consisting of the eight methods of practice very practically for families, schools, and for society. If everyone applies and practices this path together in the daily life in accordance right with the dharma, they can bring the flowers and fruits of authentic joy and happiness to the many all over the planet. 

Trên đây, nội tâmngoại cảnh đã được trình bày. Tiếp theo, chúng ta tiếp tục tìm hiểu ý nghĩa ma quân. Khác với cảnh giới hữu hình của con người, ma thuộc cảnh giới vô hình; quân có nghĩa là một nhóm số đông. Theo giáo lý ẩn dụ của Phật giáo, ma quân dụ cho những hạt giống tiêu cực trong thân và trong tâm ta. Chẳng hạn như, mỏi mệt, biếng nhác, giải đãi, phóng túng, buông lung, do dự, nãn chí, thoái lui, tham lam, sân giận, si mê, bạo động, hận thù, v.v…, là những tập khí tiêu cực. Chánh kham nhẫn, tinh tấn, dõng mãnh, nghị lực, sức sống, khoan dung, độ lượng, an lạc, hạnh phúc, hòa bình, tuệ giác, v.v… đều là những tập khí tích cực.

Inner mind and outer scene finished being discussed above. Next, we keep learning about the meanings of Mara’s army. Different from the visible realms of humans, maras belong to the invisible realms; army means a group of the many. According to the metaphorical teachings of Buddhism, Mara’s army symbolizes the negative seeds in our bodies and minds. For example, tiredness, laziness, indolence, looseness, licentiousness, hesitation, disheartenment, regression, greed, anger, delusion, violence, hatred, etc. are the negative habits. Right endurance, effort, courage, promotion, energy, vitality, tolerance, generosity, peacefulness, happiness, peace, insight, etc. are the positive habits.

Là người tỉnh thức, chúng ta nhận diện rằng các hạt giống tiêu cựctích cực luôn có mặt trong ta từ giờ này sang giờ khác, từ ngày này sang ngày khác, từ tuần này sang tuần khác, từ tháng này sang tháng khác, và từ năm này sang năm khác. Tu tập là quá trình giúp chúng ta thanh lọc và chuyển hóa các hạt giống tiêu cực thành các hạt giống tích cực bằng cách áp dụngthực hành Phật pháp vào trong đời sống hằng ngày của mình một cách tinh chuyên, chánh niệm và tỉnh giác. Khi chúng ta thực tập được như vậy, thì các hạt giống tiêu cực trong ta dần dần sẽ được chuyển hóa, các hạt giống tích cực trong ta sẽ được phát triển, và ánh sáng giác ngộ trong ta sẽ được hiển bày.  

As people of awakening, we recognize that the negative and positive seeds are always present in us from hour to hour, from day to day, from week to week, from month to month, and from year to year. Cultivation is the process of helping us purify and transform the negative seeds into the positive seeds by applying and practicing the Buddhadharma in our daily lives diligently, mindfully, and awakeningly. When we practice so, the negative seeds in us will be gradually transformed, the positive seeds in us will be developed, and the light of enlightenment in us will be clearly manifested.

Ngược lại, khi chúng ta không tu tập Phật pháp giỏi, hạt giống tích cực trong ta sẽ bị giảm và mất dần, hạt giống tiêu cực trong ta tăng trưởng và tăng nhanh, Phật tánh và ánh sáng giác ngộ trong ta sẽ bị lu mờche khuất. Người tu tập Phật pháp giỏi thì họ sẽ gặt hái hoa trái an vui và hạnh phúc rất nhiều. Người tu học Phật pháp không giỏi hoặc tu học Phật pháp lai rai thì họ sẽ gặt hái hoa trái an vui và hạnh phúc rất ít. Quá trình tu tập là quá trình giúp chúng ta đạt tới ánh sáng giác ngộ, an vui, và hạnh phúc trong từng phút, từng giờ, từng ngày, và trong các giai đoạn khác nhau của cuộc đời.

Conversely, when we do not practice the Buddhadharma well, the positive seeds in us will be gradually reduced and lost, the negative seeds in us will rise up and increase quickly, Buddha nature and the light of enlightenment in us will be overshadowed and obscured. Those who practice the Buddhadharma well reap the flowers and fruits of very much peacefulness and happiness. Those who learn and practice it not well or slowly reap the flowers and fruits of very little peacefulness and happiness. The process of Dharma learning and practice is that of helping us achieve the light of enlightenment, peacefulness, and happiness in every minute, every hour, every day, and in different stages of life.              

Theo ý nghĩa ẩn dụ, ma quân chỉ cho cái tâm đố kỵ, kỳ thị, sợ hãi, thấp kém, không giỏi bằng người, và sợ người khác giỏi hơn mình. Nếu một người không tu tập hoặc tu tập chút chút, thì ma quân trong vị ấy dễ dàng xuất hiện, và ngược lại, nếu một người tu tập tinh chuyên, thì ma quân trong vị ấy biến mất dần dần.

According to the metaphorical senses, Mara’s army represents the mind of envy, discrimination, fearfulness, inferiority, not as good as other people, and fearing they are better than one. If a person does not cultivate or cultivates a little bit, Mara’s army in him or in her will appear easily, and vice versa, if a person cultivates diligently, Mara’s army in him or in her disappears gradually.

Khi sao Mai vừa mọc, Bồ-tát Tất-đạt-đa, người tu tập tinh chuyên, hoàn toàn chiến thắng ma quân bằng cách đoạn tận các phiền nãotập khí tiêu cực trong Ngài. Lúc đó, tâm Bồ-tát trở nên bừng sáng, ánh sáng giác ngộ, hòa bình, an lạchạnh phúc trong ngài có khả năng chiếu sáng khắp nơi tự thân và tha nhân ngay tại thế gian này.

When the morning Star rose, the Bodhisattva Siddhārtha, who cultivated diligently, won mara’s army completely by ending defilements and negative habits in himself. At that time, his mind got suddenly illuminated, the light of enlightenment, peace, peacefulness and happiness in him had the ability to shine all over himself and other people right in this world.

Qua các ý nghĩa đề cập ở trên, chúng ta thấy rằng ánh sáng giác ngộtỉnh thức đều bắt nguồn từ pháp hành; vững chãithảnh thơi đều bắt nguồn từ pháp hành; an lạchạnh phúc cũng đều bắt nguồn từ pháp hành. Cùng với pháp hành là pháp hiểu, pháp học, pháp thiền, pháp định, pháp lạc, pháp hoằng, và pháp hộ đi cùng với Bồ-tát Tất-đạt-đa. Xuyên qua pháp hành, ngài hoàn toàn có đủ các chất liệu ấy.

Through the foregoing meanings, we see that the light of enlightenment and awareness originates from Dharma practice; stableness and calmness are derived from Dharma practice; peacefulness and happiness are also derived from Dharma practice. Along with Dharma practice, Dharma understanding, Dharma learning, Dharma meditation, Dharma concentration, Dharma happiness, Dharma propagation, and Dharma protection go together with Bodhisattva Siddhārtha. Throughout the Dharma practice, he had fully enough those qualities.

Ở điểm này, chúng ta nên hiểu thêm rằng, khi một con người sinh ra đời, vị ấy có đầy đủ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và ý, thì cả gia đình của vị ấy đều vui. Khi vị ấy lớn lên, học hành, đỗ đạt, thành tài, có công việc làm ăn ổn định, và lập gia thất, thì tự thân của vị ấy không những vui, mà gia đình nội ngoại hai bên của vị ấy cũng đều vui. Những ý trên đây được nói đến con người thế gian. Khác với con người thế gian, Bồ-tát Tất-đạt-đa, con xuất thế gian, đã tìm ra ánh sáng giác ngộ, chân lý khổ đau, và con đường chuyển hóa khổ đau dưới cội cây Bồ-đề (Bodhi) tại Bồ-đề-đạo-tràng (Bodhgaya) khoảng năm 589 trước thường lịch. Ở thế giới này, không những các loài hữu tình, mà các loài vô tình trên quả địa cầu đều được thấm nhuần ánh sáng tuệ giác, từ bi, trí tuệ, hòa bình, và an lạc từ nơi ngài.

At this point, we should understand more that when one person is born in the world, he is full of eyes, ears, noses, tongue, body, and mind, his whole family is happy with him. When he grows up, studies, graduates, achieves talents, has a stable job, and gets married, he himself is not only happy, but his paternal and maternal families are also happy. The forgoing senses are mentioned about worldly person. Different from that person, Bodhisattva Siddhārtha, the monastic person, found the light of enlightenment, the truths of suffering, and the path of transformation of suffering beneath the Bodhi tree at Bodhgaya about the year 589 before the common calendar. In this world, not only all sentient beings, but also all insentient beings on the globe have got instilled the light of loving-kindness, compassion, wisdom, peace, and peacefulness in him.     

“Bồ-tát Tất-đạt-đa,

quyết tâm đi xuất gia,

an trú vui thiền định,

chứng ngộ đạo tỉnh thức,

chứng ngộ đạo hòa bình,

chứng ngộ đạo giải thoát,

chỉ dạy cho chúng sanh,

đi trên đường chân chánh

bằng ánh sáng giác ngộ,

bằng ánh sáng Phật pháp,

bằng ánh sáng Tăng đoàn

của đức Phật Thế Tôn.

Người người cùng tu tập,

nhà nhà được an vui.”

(Người viết)

 

Bodhisattva Siddhārtha,

who had been determined to become the homeless Monastic,

obtained the path of awareness,

gained that of peace,

attained that of deliverance,

instructed living beings

to be on the right way

by the light of enlightenment,

by that of the Buddhadharma,

by that of the Sangha

of the World-Honored Buddha.

Many people cultivate his teachings together,

their families get happy.”

(The writer)

Theo cái nhìn tương tức của Phật giáo, đức Phật sơ sinh, thái tử Tất-đạt-đa, hay Bồ-tát Tất-đạt-đa, đều bắt nguồn từ con người duyên sinhgiả hợp (Sanskrit pratītyasamutpāda; Pali paticcasamuppāda). Xuyên qua việc tu tập chánh tinh tấn, kham nhẫn, và thiền định, nương vào con người này, Bồ-tát Tất-đạt-đa tìm ra ánh sáng giác ngộ nơi tự thân, giáo hóa, và làm lợi ích cho tha nhân. Do vậy, khi con người này sinh ra, không những dân chúng và dòng dõi hoàng gia tại thành Ca-tỳ-la-vệ thuộc Ấn Độ cổ đại, một phần của nước Nê-pan (Nepal) ngày nay, vui mừng, mà cả pháp giới chúng sinh trên khắp hành tinh cũng đều vui mừng.

According to interdependent vision of Buddhism, a newborn Buddha, prince Siddhārtha, or Bodhisattva Siddhārtha, originates from the physical person of dependent arising and elements (Sanskrit pratītyasamutpāda; Pali paticcasamuppāda). Through his cultivation of right effort, endurance, meditation, and concentration, depending this physical person, Bodhisattva Siddhārtha, finding out the light of enlightenment from himself, taught and benefited other people. Therefore, when this person was born, not only are the people and his royal family in Kapilavatthu of ancient India, a part of Nepal today, happy and glad, but living things and living beings all over the planet are happy and glad as well.

Có hai lý do chính sau đây: Thứ nhất, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) và hoàng hậu Ma Da (Māyādevī), lúc trên 40 tuổi, mới có con đầu lòng đặc tên là Tất-đạt-đa, con người toại nguyện, có đầy đủ phước đứctrí tuệ. Cả vua và hoàng hậu đều hiến tặng cho trái đất này một con người quý nhất trong lịch sử tư tưởng của nhân loại. Thực vậy, con người toại nguyện này luôn luôn có tâm niệm lành, ý nghĩ lành, và lời nói lành để đem ánh sáng hòa bình, từ bi, trí tuệ, giác ngộ, giải thoát, an vui, và hạnh phúc cho số đông trên khắp hành tinh này.

There are the two following main reasons: First, King Suddhodana and Queen Māyādevī, when over 40 years old, had a first-born child named Siddhārtha, a fully contented person with the sufficiency of virtue and wisdom. Both the King and the Queen have dedicated the most precious person to this earth in the history of human thought. Indeed, this fully contented person always has whosome mind, wholesome thoughts, and wholesome words to bring the light of peace, loving-kindness, compassion, wisdom, enlightenment, deliverance, peacefulness and happiness to the many all over the planent.

Ngày nay, với niềm tin chánh tín đối với Tam Bảo, những ai có đủ duyên lành học, hiểu, dạy dỗ, hành trì, và ứng dụng Phật pháp vào trong đời sống hằng ngày, thì họ có khả năng hiến tặng đức hạnhtrí tuệ cho gia đình, cho tự viện, cho dòng họ, và cho cả xã hội. Khi hiểu và thực hành được như vậy, thì họ có khả năng góp phần xây dựng một quê hương thanh bình, các gia đình hạnh phúc, và cõi cực lạc ngay tại thế gian này.

At the present day, with right confidence in Triple Gem (the Buddha, the Dharma, and the Sangha), those who have enough wholesome conditions to learn, understand, teach, practice, and apply the Buddhadharma in their daily lives, they themselves have the ability to offer their virtue and wisdom to their families, Temples, relatives, and to society. When understanding and practicing so, they have the capacity to contribute to building their peaceful homeland, happy families, and a realm of pure land right in this world.

Thứ hai, sau khi thái tử Tất-đạt-đa sinh ra, nhận lời mời của vua Tịnh-phạn (Suddhodana), tiên A-tư-đà (Asita) và nhà hiền triết Kiều-trần-như, hai vị ẩn sĩ nổi tiếng thời bấy giờ, thỉnh vào triều đình Ca-tỳ-la-vệ (Pàli. Kapilavatthu Phạn. Kapilavastu) để xem tương lai cho thái tử. Cả hai vị cùng tiên đoán rằng khi lớn lên, thái tử chắc chắn sẽ từ bỏ con đường làm vua, quyết định chọn con đường xuất gia, ngộ lý vô thường, tu tập thiền định, trở thành Người giác ngộ toàn hảo, và đem lại an lạclợi ích cho nhân sinh.

Second, after prince Siddhārtha was born, receiving the invitation from king Suddhodana, seer Asita and Añña Koṇḍañña, two renowned hermits at that time, were invited to the court of Kapilavatthu to foretell the future for the prince. They both predicted that when growing up, the prince who would undoubtedly abandon the path to make a king, decide to choose the path of a homeless monastic, understand impermanent enlightenment, cultivate meditation, concentration, become the perfectly enlightened One, and bring peacefulness and benefit to human beings.

Thật vậy, những lời tiên đoán của tiên A-tư-đà và A-nhã Kiều-trần-như là những lời tiên tri duy nhất trong lịch sử Phật giáonhân loại, sau này trở thành sự thật. Với tinh thần tự tu, tự giải thoát, tự ngộ, tự độ, và độ tha, thái tử Tất-đạt-đa lớn lên, ngộ lý vô thường, từ giả hoàng cung, quyết tâm xuất gia, trở thành Phật, hiệu là Thích-ca-mâu-ni (Sakyamuni Buddha). Trong tiếng Phạn, Muni có nghĩa là nhà hiền triết tĩnh lặng, Sakya thuộc dòng tộc hoàng giaSakyamuni có nghĩa là vị hiền triết tĩnh lặng của dòng họ Thích-ca.  Buddha có nghĩa là Người giác ngộtỉnh thức viên mãn. Vậy Sakyamuni Buddha có nghĩa là Người giác ngộ viên mãn có khả năng đoạn tận các phiền nãovô minh, sáng lập ra đạo Phật, đem hoa trái tình thương và hòa bình cho pháp giới chúng sinh trên khắp hành tinh này.

Indeed, the seer Asita’s and Asita and Añña Koṇḍañña’s predictions, which were the unique prophecies in the history of Buddhism and humankind, later on became true. With the spirits of self-cultivation, self-deliverance, self-enlightenment, self-support, and selfless-support, the prince Siddhārtha, who grew up, understood impermanent enlightenment, left his royal family, was determined to leave his royal family for a religious life and became the Buddha, titled Sakayanuni. In Sanskrit, Muni means a quite sage, Sakya belongs to a royal clan; Sakyamuni means a quiet Sage of sakyan clan. Buddha mean the fully enlightened or awakened One. Thus, Sakyamuni Buddha means the fully enlightened One, who had the potential to end defilements and ignorance, founded Buddhism, and brought the flowers and fruits of love and peace to living things and living beings all over the planet.

Với hạt giống giác ngộ trong nhiều đời, với dòng dõi của các bậc thánh trong nhiều kiếp, khi Bồ -tát Tất-đạt-đa thành Phật, ánh sáng giác ngộ, từ bi, và hòa bình của ngài được truyền bá rộng rãi trong khắp nhân gian. Ánh sáng này bình đẳng, không kỳ thị, và không ngăn cản bất cứ ai cả. Những ai có đủ duyên lành học hỏi, hành trì, và ứng dụng Phật pháp vào trong đời sống hằng ngày một cách chuyên cần, chánh niệm, và tỉnh giác, thì họ có khả năng gặt hái những hoa trái an vui và hạnh phúc ngay bây giờ và ở đây trong cuộc sống hiện tại. Đây là điểm đặc thù của đạo Phật hiếm thấy hoặc không tìm thấy trong các tôn giáo bạn.

With the seeds of enlightenment through many lives, with the lineage of the sages through many eons (Kalpas), when Bodhisattva Siddhārtha becomes the Buddha, the light of his enlightenment, loving-kindness, compassion, and peace has been widely spread over the world. This light, which is equal, does not discriminate, and does not prevent anyone at all. Those who have enough wholesome opportunity to study, to practice, and to apply the Buddhadharma in their daily lives diligently, mindfully, and consciously have the ability to reap the flowers and fruits of peacefulness and happiness right here and right now in the present life. This is special characteristic of Buddhism rarely found or not found in other religions.

Tóm lại, qua những gì đề cập ở trên, chúng ta biết rằng ánh sáng giác ngộ được xuất phát từ sự tu chứng của Bồ-tát Tất-đạt-đa. Khi Bồ-tát trở thành Phật, bậc giác ngộ viên mãn, cùng với các vị đệ tử, những vị sứ giả hòa bình, tiếp tục lên đường vận chuyển bánh xe chánh pháp để truyền bá ánh sáng giác ngộ và hòa bình cho số đông khắp cõi Ấn Độ.

To sum up, through the above-mentioned things, we know that the light of enlightenment originates from the enlightened cultivation of Bodhisattva Siddhārtha. When he became the Buddha, the fully enlightened One, along with his disciples, messengers of peace, kept going on the way, set the wheel of the Dharma in motion to spread the light of enlightenment and peace to the many all over India.

Ngày nay, ánh sáng giác ngộ và hòa bình không những truyền báẤn Độ, mà còn truyền bá khắp nơi trên thế giới. Nơi nào ánh sáng giác ngộ được truyền bá, thì nơi đó con người an trú vững chãi trong đạo tỉnh thứcgiác ngộ, họ không bao giờ gặp sự kỳ thị, phân biệt chủng tộc, và phân chia giai cấp. Nơi nào đạo Phật được truyền bá, thì nơi đó, với sự tu tậpứng dụng Phật pháp vào trong đời sống hằng ngày, con người sẽ sống hiền và thiện ra. Nơi nào đạo Phật có mặt, thì nơi đó đạo Phật, đạo hòa bình, không bao giờ gây ra chiến tranh tôn giáo cho bất cứ ai. Cũng vậy, nơi nào đạo Phật có mặt, thì nơi đó quê hương, dân chúng, làng xóm không những được thanh bình, mà thiên nhiên và muôn thú đều được yên vui, bởi lẽ các loài hữu tình và vô tình đều thấm nhuần giáo lý giác ngộ, từ, bi, và trí tuệ của đạo hòa bình.

Today, the light of enlightenment and peace has been not only spread in India, but also everywhere throughout the world. Wherever the light of enlightenment has been spread, there people live stably in the path of awakening and enlightenment, they have never met discrimination, distinction of race, and division of caste. Wherever Buddhism has been spread, there, with practice and application of the Buddhadharma in their lives, people will live more genly and better. Wherever Buddhism has been present, there Buddhism, the path of peace, will have never caused a religious war for anyone. Likewise, wherever Buddhism has been present, there, homeland, whose people, villages, and hamlets are not only tranquil, but nature and all animals are also peaceful and happy, because sentient beings and insentient beings have got instilled the teachings of enlightenment, loving-kindness, compassion and wisdom of peace religion.

Khi hiểu và thực hành được như vậy, thì chúng ta cùng nhau góp phần đem lại an lạchạnh phúc đích thực cho số đông trên khắp hành tinh này.

Kính chúc quý vị và gia quyến an lạchạnh phúc trong ánh sáng giác ngộ và hòa bình của đức Phật Thế Tôn.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

When understanding and practicing so, we together contribute to bringing authentic peacefulnesss and happiness to the many all over this planet.

May you and your loved ones be well and happy with the light of the World-Honored Buddha’s peace and enlightenment.

Namo the Original Master Sakyamuni Buddhaya

By Thích Trừng Sỹ

 -----------------

[1] Xem từ Bồ-tát (Bodhisattva) được thấy trong Trường Bộ (Dighā Nikāya), Kinh Đại Bổn (Mahāpadāna Sutta),  Phần I, số 18, 19, 20… 30. 

[2] Xem http://dhammacakkhu.blogspot.com/p/uc-phat-hien-than-cua-hoa-binh-nguoc.html

[3] Xem  http://en.wikipedia.org/wiki/Four_Noble_Truths#Fourth_truth:_path_to_the_cessation_of_dukkha

[4]  Xem http://dhammacakkhu.blogspot.com/p/lich-su-uc-phat-thich-ca-mau-ni-tom-tat.html

[5] See the word Bodhisattva be found out in Dighā NikāyaMahāpadāna Sutta, Part I, No 18, 19, 20… 30.

[6] See http://dhammacakkhu.blogspot.com/p/uc-phat-hien-than-cua-hoa-binh-nguoc.html

[7] See http://en.wikipedia.org/wiki/Four_Noble_Truths#Fourth_truth:_path_to_the_cessation_of_dukkha

[8]  See http://dhammacakkhu.blogspot.com/p/lich-su-uc-phat-thich-ca-mau-ni-tom-tat.html

[9] Xem từ Bồ-tát (Bodhisattva) được thấy trong Trường Bộ (Dighā Nikāya), Kinh Đại Bổn (Mahāpadāna Sutta),  Phần I, số 18, 19, 20… 30. 

[10] See the word Bodhisattva be found out in Dighā NikāyaMahāpadāna Sutta, Part I, No 18, 19, 20… 30.

[11] Xem http://dhammacakkhu.blogspot.com/p/uc-phat-hien-than-cua-hoa-binh-nguoc.html

[12] See http://dhammacakkhu.blogspot.com/p/uc-phat-hien-than-cua-hoa-binh-nguoc.html

[13] Xem  http://en.wikipedia.org/wiki/Four_Noble_Truths#Fourth_truth:_path_to_the_cessation_of_dukkha

[14] See http://en.wikipedia.org/wiki/Four_Noble_Truths#Fourth_truth:_path_to_the_cessation_of_dukkha

[15]  Xem http://dhammacakkhu.blogspot.com/p/lich-su-uc-phat-thich-ca-mau-ni-tom-tat.html

[16]  See http://dhammacakkhu.blogspot.com/p/lich-su-uc-phat-thich-ca-mau-ni-tom-tat.html

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2203)
“Tướng” là cái gì? “Tướng” chính là tướng trạng của sự vật biểu hiện nơi ngoài và tưởng tượng ở nơi trong tâm chúng ta.
(Xem: 32345)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6445)
Duy Thức Học được gọi là môn triết họcmôn học này nhằm khai triển tận cùng nguyên lý của vạn hữu vũ trụ nhân sanh mà vạn hữu vũ trụ nhân sanh...
(Xem: 6396)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 3788)
Tạo sao gọi là Phổ Môn? vì tự tính của mình phổ biến khắp hư không pháp giới, nên gọi Phổ Môn.
(Xem: 5051)
“Quán” là xem xét, “Thế Âm” là âm thanh của thế gian. Quán Thế Âmxem xét âm thanh thế gian, tiêu biểu cho lòng từ bi của Bồ-tát.
(Xem: 11027)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30189)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 11962)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 3238)
Một bài pháp được ban cho chư Tăng Ni ở International Mahayana Institute tại Boudhanath, Nepal, ngày 2 tháng 2, năm 1975. Nicholas Ribush hiệu đính.
(Xem: 34282)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 52063)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 12905)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 21601)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9491)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 3055)
"Niệm Phật" nghĩa là xưng danh hiệu - hay nhớ tưởng đến hình tướng, bản nguyện hay công đức của một đức Phật - như Phật Thích-ca hay Phật A-di-đà.
(Xem: 10260)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12447)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12614)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16067)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 13651)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14199)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9088)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11636)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11162)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 11361)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 12414)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 20524)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 17395)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 31687)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11879)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11650)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 4281)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, Luận Tập Bộ Toàn; Kinh văn số 1678. Pháp Hiền dịch ra chữ Hán. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12611)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10150)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 16225)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 11590)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14589)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 11853)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16614)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 12599)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 51631)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 12486)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 9828)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 14306)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 19941)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13582)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15259)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17335)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 16648)
Nhập Trung Quán Luận (PDF) - Tổ Sư Nguyệt Xứng - Chuyển dịch: Thích Hạnh Tấn, TN Nhật Hạnh
(Xem: 13356)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 12329)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 11937)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13139)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12382)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 25326)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 14381)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 28129)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 10185)
"Tánh Không" (còn gọi là tính-không) là một từ ngữ liên hệ đến sự giảng dạy chính yếu của mọi ngành Phật giáo, nhưng ý nghĩa thật sự của từ ngữ nầy thường bị hiểu lầm.
(Xem: 8211)
Đạo Phật trên ý nghĩa thiết yếu là “biện chứng giải thoát” hay là con đường gỉai thoát. Gỉai thoát khỏi khổ đau, sinh tử luân hồi.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant