Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Bồ Tát Long Thọ Vì Vua Thiền Đà Ca Nói Kệ Pháp Trọng Yếu

27 Tháng Mười 201520:09(Xem: 12381)
Bồ Tát Long Thọ Vì Vua Thiền Đà Ca Nói Kệ Pháp Trọng Yếu
BỒ-TÁT LONG THỌ VÌ VUA THIỀN-ĐÀ-CA NÓI KỆ PHÁP TRỌNG YẾU
Kinh văn số 1672

Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32, Luận tập bộ toàn
Đời Tống, Tam Tạng Pháp Sư Cầu-Na-Bạt-Ma dịch từ chữ Phạn sang chữ Hán
Sa-môn Thích Như Điển phương trượng chùa Viên Giác Đức quốc
Dịch từ chữ Hán sang chữ Việt nhân khai mạc khoá tu học Phật Pháp Âu châu lần thứ 19
Tại Göterborg Thụy Điển, ngày 27.07.2007
Hiệu đính lần thứ nhất ngày 27 tháng 10 năm 2015
 

 

   Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết

   Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm

   Trọn bị vô minh che, ngăn ngại

   Ta nay vì họ hưng lợi ích.

   Ví như khắc hoạ, tạo tượng Phật,

   Người trí thấy được nên cung kính,

   Ta nương Như Lai nói chính Pháp

   Đại vương cũng nên tin nhận sâu.

   Ngài trước tuy nghe lời Thích-Ca

   Nay nếu nghe nhận thêm nhận thức.

   Giống như ao hoa sắc thanh tịnh

   Ánh trăng tỏa chiếu sáng hơn ngày.

   Phật nói sáu niệm phải tu tập

   Nghĩa là: Tam Bảo, Thí, Giới, Thiên.

   Tu hành mười thiện tịnh ba nghiệp,

   Lìa rượu, phóng dậttà mạng,

   Quán thân, mạng, tài chóng nguy ngập

   Nên thí Phước Điền cứu nghèo cùng,

   Thí làm bền chắc không gì sánh

   Là người thân cận tối đệ nhất.

   Chăm tu tịnh giới trừ vết uế,

   Cũng chớ mong muốn, cầu các Hữu.

   Ví như gieo trồng trong đại địa

   Giới sinh các thiện cũng như thế.

   Tu Nhẫn, nhu hoà, bỏ sân khuể

   Phật nói hành này tối thượng nhất.

   Như thế Tinh tiến và Thiền, Trí

   Đủ sáu hành này vượt sống chết.

   Có thể ở nhà hiếu cha mẹ

   Đó tức gọi là thắng phúc điền,

   Hiện đời danh tiếng lớn truyền khắp,

   Vị lai phúc báo chuyển vô lượng.

   Giết, trộm, dâm, dối, đam mê rượu,

   Giường chạm cao rộng và xông hương,

   Hát ca xướng kỹ, ăn quá thời,

   Các ác như thế phải xa lìa.

   Nếu chút thời gian tu giới này

   Thọ vui cõi trời, lên niết-bàn.

   Xan tật, tham dục và xiểm ngụy,

   Cuống hoặc, điên đảogiải đãi

   Các pháp ác, bất thiện như thế

   Đại vương phải quán, chóng vứt bỏ.

   Đoan chính, tôn cao và năm dục                             

   Phải biết nguy ngập và phù phiếm,

   Chớ cậy vào pháp không chắc ấy.

   Kiêu dật, phóng túng sinh các khổ,

   Muốn tăng các thiện, chứng cam lồ

   Phải nên xa lià như vứt độc.

   Có thể tinh cần bỏ kiêu mạn

   Ví như trừ mây hiển trăng thu,

   Giống như Chỉ-Kế và Nan-Đà,

   Cũng như Sai-Ma... các hiền thánh.

   Như Lai nói có ba loại lời:

   Lời nhập ý, chân thật, hư vọng,

   Nhập ý như hoa, Thật như mật,

   Hư vọng ác hèn như phẩn uế,

   Phải nên tu tập hai loại trước,

   Nhanh chóng dứt trừ loại hư vọng.

   Bốn loại pháp từ sáng vào sáng

   Vua  phải phân biệt, suy nghĩ kỹ,

   Hai loại vào sáng thì nên tu,

   Nếu là si tối phải chóng bỏ,

   Quả Am-ba-la hoá bốn loại

   Người khó phân biệt cũng như vậy.

   Phải lấy trí huệ quán sát sâu

   Nếu thật hiền thiện nên gần gũi.

   Tuy thấy người nữ cực đoan nghiêm

   Phải tưởng như mẹ, như người hầu,

   Nếu khởi tâm tham dục ái nhiễm

   Phải nên chính tu quán bất tịnh.

   Tâm này tháo động phải cấm chế

   Như giữ thân mạng hoặc trân bảo,

   Tâm dục nếu khởi phải kinh sợ

   Như sợ đao kiếm, các ác thú.

   Dục làm bất lợi như oán độc

   Đấng Mâu-Ni nói lời như thế.

   Sinh tử luân hồi quá ngục trói

   Nên phải chăm tu cầu giải thoát.

   Sáu Nhập tháo động ruổi các cảnh

   Phải nên thu giữ chớ buông lung.

   Có thể như thế nhiếp các căn

   Hơn cả dũng tướng thắng giặc mạnh.

   Thân này bất tịnh chín lỗ chảy

   Chẳng có cùng tận như sông biển,

   Da mỏng đậy che dường thanh tịnh

   Như anh lạc giả tự trang nghiêm,

   Những người có trí chính phân biệt

   Biết nó dối gạt liền vứt bỏ.

   Ví như người ghẻ cạnh lửa nồng

   Thoạt tuy tạm thích sau thêm khổ,

   Tưởng của tham dục cũng như thế

   Lúc đầu chút lạc sau nhiều hoạn.

   Thấy thật tướng thân đều bất tịnh

   Ngay đó quán không, không có ngã,

   Nếu có thể tu tập quán này

   Trong các lợi ích vô thượng nhất.

   Tuy có dòng tộc và nghe nhiều

   Nếu không giới, trí như cầm thú,

   Tuy chỗ xấu hèn, ít thấy nghe

   Tu được giới, trí gọi thắng sỹ.

   Tám pháp: lợi, suy... khó thể tránh

   Nếu trừ bỏ được thật không sánh.

   Các vị Sa-môn, Bà-la-môn

   Có cha mẹ, vợ con, quyến thuộc

   Chớ vì ý họ, nhận lời họ

   Rộng tạo bất thiện, hành phi pháp,

   Nếu vì như thế khởi các lỗi

   Vị lai khổ lớn chỉ mình nhận.

   Phàm tạo các ác chưa báo ngay,

   Không như đao kiếm liền thương, hại

   Lâm chung tướng tội mới cùng hiện,

   Sau vào địa ngục chịu các khổ.

   Tín, Thí, Giới, văn, Tuệ, Tàm, Quý

   Bảy pháp như thế gọi Thánh tài

   Chân thật, không sánh, Mâu-Ni nói

   Siêu việt các trân bảo thế gian.

   Đại vương nếu tập thắng tài này

   Không lâu cũng chứng quả đạo trường.

   Giỏi cờ, rượu ngọt, đàn sáo hay

   Giải đãi, kiêu dật và bạn ác,

   Phi thời, khinh tháo, nhiều động loạn

   Bảy pháp như đây phải lìa xa.

   Tri túc thứ nhất hơn các tài

   Lời như thế được Thế tôn nói,

   Biết đủ, tuy nghèo được gọi giầu,

   Có của , nhiều dục gọi là nghèo,

   Nếu nhiều tài nghiệp tăng các khổ,

   Như rồng nhiều đầu thêm độc tố.

   Phải quán vị ngon như thuốc độc

   Dùng nước trí huệ vẩy khiến sạch.

   Vì giữ thân này nên phải ăn

   Chớ tham vị sắc, tăng kiêu mạn,

   Nơi các dục nhiễm phải sinh chán.

   Điều hoà thân này khiến an ổn,

   Cần cầu đạo vô thượng niết-bàn,

   Sau rồi nên phải tu trai giới.

   Một đêm phân biệt có năm thời,

   Ở trong hai thời phải ngủ nghỉ,

   Đầu đêm, giữa, cuối quán sinh tử,

   Phải chăm cầu thoát chớ qua không.

   Bốn định vô lượng phải tu tập

   Đó gọi là mở đường Phạm Thiên,

   Nếu chuyên trói niệm bốn tâm thiền

   Mạng hết ắt sinh nơi trời ấy.

   Hữu vi dời đổi đều vô thường

   Khổ, không, bại hoại, chẳng kiên cố,

   Không ngã, không lạc, chẳng thanh tịnh,

   Như thế đều gọi: pháp đối trị.

   Nếu ai quán sâu pháp môn này,

   Vị lai thường ở vị tôn quý.

   Tu hành năm giới, đoạn năm tà,

   Cũng là điều đại vương nên niệm:

   Ví như chút muối thả sông Hằng

   Chẳng thể khiến nước có vị mặn,

   Ác nhỏ ít nếu gặp các thiện,

   Tiêu tan bại hoại cũng như thế.

   Năm tà nếu tăng, cướp công đức

   Vua phải trừ diệt chớ cho tăng,

   Năm căn như: Tín..., các nguồn thiện,

   Thì phải tu tập khiến tăng thêm.

   Tám khổ như: sinh...thường hực cháy

   Thường dùng nước huệ rưới cho diệt.

   Muốn cầu thiên lạc và niết-bàn

   Phải thường tu tập chính tri kiến.

   Tuy có trí bén, vào đạo tà,

   Công đức vi diệu mãi không thừa.

   Bốn loại điên đảo hại các thiện

   Cho nên phải quán chớ cho sinh:

   Sắc chẳng phải ngã, ngã chẳng sắc

   Trong ngã không sắc, sắc không ngã,

   Nơi sắc sinh bốn loại tâm này,

   Các ấm còn lại cũng như thế,

   Hai mươi tâm này gọi điên đảo,

   Có thể trừ được là tối thượng.

   Pháp không tự khởi, vô minh sinh

   Chẳng Tự Tại hay thời, hữu làm,

   Đều từ vô minh, nghiệp ái khởi,

   Nếu không nhân duyên liền dứt hoại.

   Đại vương đã biết các nhân này

   Phải thắp đèn huệ trừ si tối.

   Các kết: thân kiến, giới thủ, nghi

   Ba thứ hay chướng đạo vô lậu,

   Nếu vua hủy hoại khiến diệt tan

   Pháp Thánh giải thoát sẽ hiển hiện.

   Ví như người mù hỏi tướng nước

   Trăm nghìn vạn kiếp chẳng thể biết,

   Dục cầu niết-bàn cũng như thế

   Chỉ tự tinh cần sau mới chứng.

   Dục giả quyến thuộctri thức

   Nhưng gặp được thì cực khó có,

   Cho nên Đại Vương phải tinh tiến

   Rồi sau có thể chứng tịch diệt.

   Thí, Giới, Nghe Nhiều và Thiền Định

   Nhân đây dần gần bốn chân đế.

   Nhân chủ nên phải tu tuệ minh,

  Hành ba pháp này cầu giải thoát

  Có thể tu thừa tối thượng này

  Ắt nhiếp tất cả các thiện khác.

  Đại Vương phải tu pháp Niệm Thân,

  Thế Tôn gọi là đạo thanh tịnh,

  Nếu không niệm này, tăng giác ác

  Cho nên cần phải chăm tu tập.

  Mạng người ngắn ngủi chẳng dừng lâu

  Như bọt trên nước, khởi liền diệt,

  Khoảng thở ra, hít vào, ngủ nghỉ

  Niệm niệm hằng sút thường suy giảm,

  Không lâu liền sẽ thấy tiêu diệt,

  Da thịt thối nát cực đáng chán

  Đờm xanh, trương hoại, máu bầm chảy,

  Trùng dòi ăn hút đến khô kiệt,

  Tóc, lông, móng, răng mỗi phân tán,

  Gió thổi, nắng thiêu lần khô tận.

  Phải biết thân này chẳng vững bền

  Tích tụ bởi vô lượng khổ não,

  Cho nên hiền thánh, người có trí

  Đều quán lỗi ấy mà vứt bỏ.

  Tu-Di, biển rộng với sông dài

  Bảy mặt trời chiếu đều tan hết,

  Kiên cố như vậy còn phá hủy

  Huống lại là thân nguy ngập này,

  Vô thường đã đến không cứu hộ,

  Không thể cậy tình hoặc truy cầu.

  Cho nên Đại Vương phải quán kỹ

  Chóng sinh chán lià cầu thắng pháp.

  Thân người khó được, nghe pháp khó

  Giống như rùa mù gặp lỗ trôi,

  Nếu đã được thân hiếm có này

  Phải nên chăm tâm nghe chính pháp.

  Được thân vi diệu mà tạo ác

  Ví như đồ quý đựng các độc,

  Sinh ở trung quốc, gặp bạn lành

  Chuyên niệm, phát tâm, khởi chính nguyện.

  Lâu trồng công đức đủ các căn

  Nay vua đầy đủ các thiện này,

  Nếu lại gần gũi người tri kiến,

  Phật gọi đây là tịnh Phạm hành,

  Cho nên phải nên vui tùy thuận,

  Chư Phật do đây chứng niết-bàn.

  Đã gặp pháp thanh tịnh vi diệu

  Phải nên chí cầu đạo lìa dục.

  Sinh tử hiểm nạn khổ vô lượng

  Nói đến cùng kiếp cũng chẳng hết,

  Ta nay vì vua lược phân biệt

  Phải nên lắng nghe khéo suy nghĩ.

  Ba cõi biến chuyển không giới hạn,

  Cha mẹ, vợ con nhân lẫn nhau

  Oán thân, yêu ghét chỗ vô thường,

  Như bánh xe lửa há cùng tận?

  Vô thỉ sinh tử thế giới lại

  Sữa mẹ đã uống hơn đại hải,

  Nếu chẳng tinh cần chứng trí Không

 Tương lai lại  uống không cùng tận.

  Lăn khắp năm đường, trải trời, người

  Nếu góp xương cao hơn Tu-Di,

 Nước mắt của ái biệt sầu bi

 Cũng chẳng phải sông biển so bì.

 Nếu tính cha mẹ của một người

 Vượt quá thế gian số cây cỏ.

 Tuy hưởng năm dục vui trên trời

 Rốt trở lại đọa ác thú khổ,

 Chư thiên thọ mạng cực lâu dài

 Thọ lạc khoảng ấy khó tuyên nói,

 Hát xướng ca múa dòng diệu thanh

 Ai âm hoà nhã rất trong xa,

 Kỳ-bà diệu sắc cực đoan nghiêm

 Vây quanh hầu vệ cùng hoan lạc,

 Cỗ bàn trăm vị đều đầy đủ

 Tùy theo ý thích đến tự nhiên,

 Ao báu hương, nước tịnh tràn đầy,

 Khắp nơi giăng phủ hoa vi diệu,

 Các chim sắc lạ tụ bên trên

 Hót hòa nhau phát xa diệu âm,

 Chư thiên du hí, tắm trong ấy

 Vui thích như thế chẳng thể nói.

 Hết phúc lâm chung năm suy hiện

 Bấy giờ ngồi khổ nhớ vui trước.

 Cho nên tuy có vui thiên nữ

 Người trí thấy đó đã sinh chán.

 Tuy ở trân bảo lên lầu quán

 Cũng ắt thối đọa nơi thối bẩn,

 Tuy trong vườn Nan-Đà trên trời

 Cũng lại phải vào rừng đao kiếm,

 Tuy tắm ao Mạn-Đà chư thiên

 Rốt ắt rơi vào ngục sông tro,

 Tuy ở địa vị vua Chuyển Luân

 Rốt là đồng bộc bị truy đuổi,

 Tuy thọ vui lìa dục Phạm Thiên

 Lại rơi vô gián khổ thiêu đốt,

 Tuy ở thiên cung đầy ánh sáng

 Sau vào trong địa ngục hắc ám,

 Gọi là địa ngục Hoạt, Hắc-Thằng,

 Thiêu, cắt, chém, đâm và vô gián ,

 Tám địa ngục này thường thiêu đốt

 Đều là nghiệp báo chúng sinh ác.

 Hoặc chịu khổ lớn như ép dầu,

 Hoặc nghiền thân thể như bụi phấn,

 Hoặc phanh chi tiết cho phân tán,

 Hoặc lại chém cắt và thiêu nấu,

 Hoặc lấy đồng sôi đổ vào miệng

 Hoặc lấy móng sắt xé thân hình,

 Chó sắt tranh nhau lại ăn nuốt,

 Chim sắt tụ lại cùng mổ xé,

 Các loại trùng  độc đều gặm nhắm,

 Hoặc cột đồng cháy xuyên qua thân,

 Lửa lớn hừng hực cùng đỗng nhiên

 Vì nhân tội nghiệp không trốn thoát.

 Vạc dầu sôi sục đến cao vọt

 Tội nhân điên đảo choàng nhảy vào.

 Mạng người nguy ngập cực nhanh chóng 

 Ví như khoảng hơi thở chư thiên,

 Nếu ai với mạng ngắn như thế,

 Nghe các khổ trên không kinh sợ,

 Phải biết tâm ấy rất kiên cố

 Giống như kim cương khó bẻ gãy.

 Nếu thấy tranh vẽ, nghe người nói,

 Hoặc theo kinh sách tự nhớ nghĩ,

 Khi biết như thế đã khó nhẫn

 Huống lại thân mình tự trải qua?

 Địa ngục lớn không ngừng, không cứu  

 Trong đó các khổ không cùng tận.

 Nếu lại có ai trong một ngày

 Bị ba trăm giáo đâm thân thể

 So một niệm khổ ngục A-Tì

 Trăm nghìn vạn phần chẳng được một.

 Chịu khổ lớn này trải một kiếp,

 Duyên tội nghiệp hết lại được miễn.

 Khổ não như thế từ ai sinh?

 Đều là ba nghiệp bất thiện khởi.

 Tuy nay Đại Vương không nạn ấy

 Nếu không tu nhân, rốt đoạ lạc,

 Ở trong súc sinh khổ vô lượng

 Hoặc bị  trói buộc hoặc đòn roi.

 Vì không có Tín, Giới, Đa Văn

 Luôn với ác tâm ăn nuốt nhau,

 Xương, lông, da, thịt đến tàn hại, 

 Hoặc là minh châu, lông, sừng, răng,                                                                                                                    

 Bị người đóng cưỡi không tự tại

 Thường chịu khổ ngói đá dao gậy.

 Trong đường ngạ quỷ khổ cũng vậy

 Các sự mong cầu chẳng tùy ý,

 Đói khát bức bách, khốn lạnh nóng,

  Các khổ thiếu, mệt nhiều vô lượng,

  Bụng lớn như núi, họng như kim

  Phẩn uế máu tanh, không thể nói,

  Loã hình phủ tóc cực xấu ác

  Như cây đa-la bị đốt, chặt

  Đêm miệng ắt bị lửa lớn đốt,

  Các trùng cùng đến tranh ăn hút,

  Phân tiểu cấu uế các bất tịnh

  Trăm nghìn vạn kiếp chẳng thể được,

  Nếu lại tìm cầu được ít phần

  Lại cướp đoạt nhau cùng tan mất.

  Trăng mát đêm thu như nạn lửa,

  Ôn hoà ngày xuân hoá khổ lạnh,

  Nếu đến vườn rừng, quả hết sạch,

  Nếu đến dòng trong biến cạn khô.

  Vì duyên tội nghiệp thọ lâu dài,

  Trải qua một vạn năm nghìn năm,

  Chịu các khổ độc không chỗ khuyết

   Đều là quả báo của ngạ quỷ.

  Chính Giác nói nhân khổ não này

  Gọi là nghiệp xan tham, tật đố.

  Nếu phúc trời hết còn sót thiện

  Nhân đó được làm vua cõi người,

  Sau nếu giải đãi, phúc đều hết

  Ắt đoạ ba ác chẳng chút nghi.

  Hoặc sinh Tu-la khởi cống cao

  Khuể, tật, tham, hại tăng các não.

  Chư thiên tuy có báo thiện hành

  Vì xan tật kia mất lợi lạc.

  Cho nên phải biết kết tật đố

  Là pháp nhiễm, ác phải vứt bỏ.

  Đại Vương, ngài nay đã biết đủ

  Sinh tử lỗi ác nhiều các khổ,

  Phải nên chăm tu thiện xuất thế

  Như khát muốn uống, cứu cháy đầu,

  Nếu thêm tinh tiến dứt các Hữu

  Trong các thiện là vô thượng nhất.

  Phải chăm trì giới, tu thiền, trí

  Điều phục tâm kia, cầu niết-bàn.

  Niết-bàn vi diệu tuyệt các tướng

  Không khổ sinh, lão, bệnh, não sầu,

  Cũng không sông núi với nhật nguyệt

  Cho nên phải nên chóng chứng biết.

  Nếu muốn chứng được trí Vô Sư

  Phải nên chuyên tu Thất Giác pháp,

  Nếu ai ngồi thuyền Giác phần này

  Dễ vượt thoát biển sinh tử lớn.

  Mười bốn pháp chẳng được Phật nói

Chỉ sinh tâm tin, chớ nghi hoặc,

Chỉ phải chính niệm chăm tinh tiến

Quyết định tu tập các pháp thiện.

Vô minh duyên hành, thức, danh sắc,

Sáu nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu,

Hữu ắt duyên sinh, sinh duyên tử

Nếu hết sinh tử, nhân duyên diệt,

Như thế chính quán mười hai duyên

Người này ắt thấy Thánh Sư Tử.

Nếu muốn lần lượt thấy Tứ Đế

Phải chăm tu tập Bát Chính Đạo.

Tuy ở chỗ tôn vinh, năm dục

Cũng được Thánh Đạo dứt các kết.

Quả này chẳng thể cầu người khác

Ắt phải tự tâm mới chứng được.

Ta nói các khổ và niết-bàn

Vì muốn lợi ích cho Đại Vương,

Không nên khởi sinh tâm kinh sợ,

Chỉ chăm tụng tập, hành các thiện.

Tâm là căn bản của các pháp

Nếu trước điều phục các việc vui.

Ta nói pháp yếu, lược phân biệt

Vua chẳng nên sinh tâm nhàm đủ,

Nếu bậc trí lớn nói rộng thêm

Cũng phải lắng tâm chăm nghe nhận.

Vua nay gọi là Pháp Khí Lớn

Nếu rộng nghe pháp ắt nhiều ích.

Nếu thấy ai tu ba nghiệp thiện

Phải sinh tâm tùy hỉ, giúp sâu,

Tự mình hành thiệntùy hỉ

Công đức như vậy trọn hồi hướng.

Vua phải ngưỡng học các hiền thánh

Như đức Quán Âm ...độ chúng sinh,

Vị lai ắt sẽ thành chính giác

Cõi không sinh, lão, ba độc hại.

Đại Vương nếu tu trên các thiện

Ắt danh xưng đẹp rộng lan truyền,

Sau đó dùng đây giáo hoá người

Khiến khắp tất cả thành chính giác.

Sông xiết phiền não trôi chúng sinh

Vì sâu kinh sợ khổ hực cháy,

Muốn diệt các trần lao như thế

Phải tu chân thật giải thoát đế.

Lià các pháp thế gian giả danh

Ắt được chỗ bất động thanh tịnh.

Nếu có người vợ tâm độc hại

Người vợ như thế nên lìa xa,

Nếu trinh lương, hoà ái, kính chồng

Khiêm hạ, chăm chỉ như nô tì  

Hằng nghĩ đến thân hữu, di mẫu  

Nên tôn kính như thần trong nhà.

Pháp  được ta nói là như vậy

Vua nên ngày đêm chăm tu hành.


BỒ-TÁT LONG THỌ VÌ VUA THIỀN-ĐÀ-CA NÓI KỆ PHÁP TRỌNG YẾU
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2203)
“Tướng” là cái gì? “Tướng” chính là tướng trạng của sự vật biểu hiện nơi ngoài và tưởng tượng ở nơi trong tâm chúng ta.
(Xem: 32343)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6445)
Duy Thức Học được gọi là môn triết họcmôn học này nhằm khai triển tận cùng nguyên lý của vạn hữu vũ trụ nhân sanh mà vạn hữu vũ trụ nhân sanh...
(Xem: 6395)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 3787)
Tạo sao gọi là Phổ Môn? vì tự tính của mình phổ biến khắp hư không pháp giới, nên gọi Phổ Môn.
(Xem: 5051)
“Quán” là xem xét, “Thế Âm” là âm thanh của thế gian. Quán Thế Âmxem xét âm thanh thế gian, tiêu biểu cho lòng từ bi của Bồ-tát.
(Xem: 11025)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30189)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 7860)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 11962)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 3237)
Một bài pháp được ban cho chư Tăng Ni ở International Mahayana Institute tại Boudhanath, Nepal, ngày 2 tháng 2, năm 1975. Nicholas Ribush hiệu đính.
(Xem: 34281)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 52060)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 12904)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 21601)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9491)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 3055)
"Niệm Phật" nghĩa là xưng danh hiệu - hay nhớ tưởng đến hình tướng, bản nguyện hay công đức của một đức Phật - như Phật Thích-ca hay Phật A-di-đà.
(Xem: 10260)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12447)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12614)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16067)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 13650)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14199)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9088)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11634)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11162)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 11359)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 12413)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 20523)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 17393)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 31687)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 11879)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11649)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 4281)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, Luận Tập Bộ Toàn; Kinh văn số 1678. Pháp Hiền dịch ra chữ Hán. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12610)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10147)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 16223)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 11589)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14588)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 11853)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16613)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 12599)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 51630)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 12486)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 9827)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 14305)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 19940)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13582)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15259)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17335)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 16647)
Nhập Trung Quán Luận (PDF) - Tổ Sư Nguyệt Xứng - Chuyển dịch: Thích Hạnh Tấn, TN Nhật Hạnh
(Xem: 13356)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 12327)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 11937)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13139)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 25325)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 14381)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 28129)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 10185)
"Tánh Không" (còn gọi là tính-không) là một từ ngữ liên hệ đến sự giảng dạy chính yếu của mọi ngành Phật giáo, nhưng ý nghĩa thật sự của từ ngữ nầy thường bị hiểu lầm.
(Xem: 8210)
Đạo Phật trên ý nghĩa thiết yếu là “biện chứng giải thoát” hay là con đường gỉai thoát. Gỉai thoát khỏi khổ đau, sinh tử luân hồi.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant