Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

20. Bố Thí Ba-la-mật

23 Tháng Hai 201100:00(Xem: 8664)
20. Bố Thí Ba-la-mật

PHÁ MÊ KHAI NGỘ
 Lê Sỹ Minh Tùng

20. Bố Thí Ba-la-mật

Đây là một trong Lục độ mà tự nó có ảnh hưởng sâu rộng trong Phật giáo. Trong cuộc sống hàng ngày chúng ta đã nhiều lần nghe đến chữ bố thí mà chính mình cũng không hề để ý đến. Đạo Phậtđạo từ bi, có nghĩa là tình thương bao la của chúng ta cho tất cả mọi chúng sinh. Chính Đức Phậtlòng từ bi mà đã xuất gia, từ bỏ giàu sang phú quý, cung vàng điện ngọc, để tìm chánh đạo ngõ hầu giúp chúng sinh thoát ra cảnh khổ.

 Vậy làm thế nào để phát huy lòng từ bi?

 Sau khi Đúc Phật thành đạo, Ngài truyền dạy chúng sinh hãy cố gắng mở rộng lòng từ bi của mình càng nhiều càng tốt, mà phương pháp thực hành tốt nhất là bố thí. Do đó, Ngài đã chế ra pháp môn Bố thí Ba-la-mật với tôn chỉ là phải thực hành điều tốt để tự độ cho mình và độ cho người ngõ hầu giúp chúng ta có cơ hội thoát ra khỏi vòng luân hồi sanh tử để đến bờ giác ngộ.

 Vậy thế nào là Bố thí?

 Bố là cùng khắp, thí là cho là biếu, do đó Bố thí là cho cùng khắp, cho tất cả mọi người, mọi vậtmọi nơi. Còn Ba-la-mật là đến bờ bên kia.

 Nói như vậy, Bố thí Ba-la-mật là một môn tu hành bằng phương pháp bố thí vì nó có sức mạnh như là một chiếc thuyền để đưa mình và đưa người từ nơi mê muội đến bờ giác ngộ của chư Phật.

 Vậy chúng ta phải Bố thí bằng cách nào?

 Theo Phật giáo, thì Bố thí được chia làm ba loại: Tài thí, Pháp thí, và Vô úy thí.

1) Tài thí: là đem tiền bạc, của cải, vật chất của mình cho người khác. Phần tài thí thì có thể chia làm hai loại:

 v Nội tài: là chỉ về bản thân của chúng ta. Đây là sự bố thí cao đẹp nhất mà chỉ có những người giàu lòng từ bi mới làm được, bởi vì loại bố thí này đòi hỏi chúng ta đôi khi phải hy sinh cả sinh mạng và đời sống của mình cho kẻ khác. Có một trường họp điển hình là biến cố 9/11 năm 2001 đả làm sụp đổ hai tòa nhà chọc trời ở Nữu ước. Khi hai tòa cao ốc nầy còn đang bùng cháy, thì có biết bao lính cứu hỏa, cũng như cảnh sát đã bất chấp mọi nguy hiểm tiến vào bên trong, chạy lên cầu thang để cứu những người thường dân vô tội còn đang bị kẹt ở bên trong. Và sự sụp đổ nhanh chóng của hai tòa cao ốc này đã giết chết trên mấy trăm lính cứu hỏa cũng như cảnh sát. Mặc dầu họ đang thi hành phận sự, nhưng với lòng can đảm bất chấp hiểm nguy, đã chứng minh sự hy sinh cao cả của họ cho sự sống của người khác và sự hy sinh này chính là Bố thí nội tài vậy.

 v Ngoại tài: là những vật thường dùng như thức ăn, đồ mặc, tiền bạc, xe cộ, nhà cửa… Khi chúng ta đem những thứ ấy cho những người túng thiếu, nghèo khổ thì gọi là Bố thí ngoại tài. Mặc dầu ở Hoa kỳ nhưng không phải là người Việt nam nào cũng thành công trên đất nước này cả. Dù thành công nhiều hay ít, tất cả chúng ta cùng có chung một quan niệm là chia sẻ, giúp đở người thân ở bên quê nhà. Khi họ nghèo khổ thì sự giúp đở đó mới có giá trị. Giúp cho họ có miếng cơm manh áo thì còn gì phước đức nào cho bằng. Thấy một nụ cười nở trên khuôn mặt khốn khổ thì cỏn hạnh phúc nào bằng. Đây chẳng những là chúng ta bố thí ngoại tài mà tự chúng ta đã tạo cho mình không biết bao nhiêu là thiện nghiệp, và chính những thiện nghiệp này sẽ giúp chúng ta thoát ra khỏi cảnh sinh tử luân hồi. Bởi thế thi hào Nguyễn Du cũng có câu:

“Dù xây chín bậc phù đồ

Không bằng làm phước cứu cho một người“

Thật vậy, việc làm phúc đức thì biết bao nhiêu cho đủ, nhưng giúp đở những ngưòi nghèo khổ, những kẻ đang gặp cảnh túng cùng, hoặc là người hoạn nạn là tạo cho chúng ta có cơ hội để phát huy lòng từ bi và tâm Bồ-đề.

2) Pháp thí: chúng ta là những người học Phật thì chúng ta nên cố gắng học hỏi để thông hiểu nhửng căn bản của Phật pháp bởi vì Đức Phật đã dạy rằng: “muốn đạt được đạo viên mãn, trước hết phải biết đạo, biết đạo rồi mới tu đạo, có tu đạo mới mong thành đạo”. Khi đã hiểu Phật pháp, thì chúng ta có thể đem những lời dạy quý báu của Như Lai ra khuyên bảo cho người khác để họ làm lành tránh dữ, cải tà quy chánh, và sống một cuộc đời đạo hạnh, thì chính chúng ta đã pháp thí cho họ rồi. Pháp thígiá trị hơn cả tài thí, bởi vì tài thí thì chỉ giúp đở người khác về phương diện vật chất trong một thời gian hay tối đa là một đời, còn pháp thí thì giúp đỡ về phương diện tinh thần, không riêng gì cho người nghèo khổ, mà luôn cho cả giới giàu sang, quyền tước. Bởi vì chúng ta đã mang ảnh hưởng tốt đẹp đến cho họ, chẳng những trong một giai đoạn, mà còn gieo nhân lành cho nhiều đời nhiều kiếp về sau. Vì những lẽ đó, chúng ta đừng bao giờ bỏ mất bất cứ cơ hôi nào để làm pháp thí.

 Sống trong một xã hội đầy dẫy phức tạp nhưng thiếu đạo đức như ở Hoa kỳ, con người có khá hơn về vật chất nhưng về tinh thần và nền tảng gia đình thì sa sút thê thảm, bởi thế sự hiếu để trong gia đình không còn giống như hồi còn ở quê nhà. Để tránh những trường họp này có thể xảy ra trong gia đình của chúng ta, hay nói một cách khác là muốn bảo tồn nền văn hóa cổ truyền của dân tộc Việt, thì học hỏi Phật pháp là một cứu cánh để có thể tự giúp ta mà còn có thể giúp cho người được. Tại sao có thể làm được?
 

Phật giáo là một nền giáo dục dựa trên căn bản hiếu đạo. Nếu chúng ta không phải là những người con hiếu đạo, thì làm sao chúng ta có thể trở thành những người học trò tốt được. Chúng ta thường hay niệm: ”Nam mô bổn sư Thích Ca Mâu-ni Phật”, thế thì bổn sư có nghĩa là thầy, còn chúng tađệ tử, có nghĩa là học trò. Người học trò tốt đối với Đức Phật trước hết phải là người con hiếu đạo trong gia đình. Quý vị còn nhớ chính Đức Phật phải vội vả quay về thăm vua cha khi nghe tin ông sắp từ trần. Không phải Đức Phật khi thành Phật thì Ngài quên đi cha mẹ hay gia đình, mà chính Ngài đã hóa độ cho toàn thể dòng họ Thích Ca, giúp cho từng người học hỏi Phật pháp để tự mình có thể chứng được Niết Bàn như Ngài vậy. Nên nhớ Đạo Phật ai tu người ấy chứng. Phật chỉ có là người chỉ đường cho ta đi mà thôi, chứ không độ trì cho ta thành Phật được. Mục đích của Phật khi về thăm cha lần chót là muốn đem giáo lý nhiệm mầu của Ngài để giảng giải cho vua cha thông hiểu trước khi lìa đời để vua cha có cơ được vãng sanh. Chính Đức Phật đã chứng minh cho chúng ta thấy tuy Ngài là Phật, nhưng Ngài luôn luôn giữ tròn chữ hiếu, chẳng những Ngài ban pháp thí cho tất cả chúng sanh, mà Ngài còn ban pháp thí cho chính cha mẹ của Ngài nữa.
 

3) Vô úy thí: vô úy là không sợ. Vô úy thí là giúp cho người khác không còn sợ. Mới nghe qua thì chúng ta thấy pháp này chả có chi là quan trọng, nhưng khi nghĩ lại thì chúng ta thấy cái sợ đã chiếm quá nữa cuộc đời của chúng ta. Khi còn nhỏ thì chúng ta sợ rắn rít, bò cạp, hoặc sợ ma…khi lớn lên thì sợ thiếu ăn, thiếu mặc, sợ giăc, sợ thi rớt, sợ kiếm không ra việc làm, sợ thiếu công danh sự nghiệp, sợ thua sút với bạn bè, khi già thì sợ đau, sợ bịnh, và cuối cùngsợ chết. Nếu muốn kể cho hết tất cả những nỗi sợ, thì phải nói cã đời vẫn chưa xong.
 

Đời sống hàng ngày đã khổ, lại càng khổ thêm vì sợ. Cho nên làm cho họ hết sợ chính là chúng ta đã cứu cho họ bớt đi quá nữa nỗi khổ đau trong kiếp sống này. Lòng từ bi của Đức Phật không nở thấy chúng sinh khổ vì sợ nên đã chế ra pháp thí vô úy này.

Muốn giúp người, trườc hết chúng ta phải luyện cho mình một đức tính đừng sợ. Làm thế nào mà đạt đến điều này?

 Khi đã hiểu thuyết vô thường của nhà Phật thì chúng ta không còn sợ cái gì cả, bởi vì nếu chúng ta không tham lam tiền của, thì chúng ta không sợ mất, không màng danh lợi thì không sợ thất vọng, cái thân tứ đại này là giả tạo, nên không sợ chết.
 

 Với ý nghĩ đó, người tu hành theo môn vô úy có thể sẵn sàng để nhảy xuống sông cứu người chết đuối, hoặc xông vào đám cướp để cứu người lương thiện.
 

Nói tóm lại, người tu hành thí vô úy, thì lúc nào cũng đem sự an vui, bình tỉnh đến cho mọi người, và mọi vật.
 

Nhưng tất cả sự Bố thí có đem lại cùng kết quả như nhau không?
 

 Chúng ta đều biết rõ là Bố thí là một pháp môn để tự độ và độ tha, nhưng nếu người Bố thídụng tâm không trong sạch, thì việc làm của họ không còn ý nghĩa gì cả, hay nói một cách khác là nó không có một giá trị tốt đẹp nào về việc bố thí của họ. Thí dụ điển hình là nếu chúng ta đem tiền về Việt nam để giúp những viện mồ côi, nhưng nếu chúng ta muốn rao giảng việc này cho mọi người biết để được tiếng khen và sau đó thì trừ vào thuế, thì việc làm này của chúng ta không có ý nghĩa gì hết.

 Chỉ có những người Bố thí với dụng ý trong sạch, thì đó mới là Bố thí theo đúng ý nghĩa của nó mà thôi.

 Còn đối với người nhận thì sao?

 Trong thế gian này, không một ai có thể nói là họ có đầy đủ mọi thứ, nếu may mắn họ có đầy đủ về vật chất, thì họ lại thiếu thốn về tinh thần, nếu được phần nầy, thì lại thiếu phần khác, thành thử sự bố thí đối với họ là một sự vổ về, an ủi, và mang lại cho cuộc sống của họ thêm phần ý nghĩa.
 

 Còn đối với người cho thì sao?

 Không có gì sung sướng hơn là thấy nụ cười trên môi của những người mình giúp đở. Mổi khi chúng ta đem tiền của hay trí tuệ ra Bố thí, thì chúng ta đã chiến thắng lòng tham lam, bỏn sẻn, ích kỷ của chúng ta, và đó là cách làm cho lòng từ bi phát triển một cách tốt đẹp nhất. Thêm nửa, mỗi khi chúng ta dám hy sinh tính mạng của mình để cứu giúp người là chúng ta có dịp thử thách lòng tham sống, sợ chết, cũng như trau dồi thêm đức tính lợi tha.
 

 Còn nếu chúng ta lý luận dựa theo thuyết luân hồi Nhân quả, mỗi khi chúng ta đem tài vật ra bố thí, thì chúng ta đã nghiễm nhiên tạo cho mình một cái nhân tốt mà nhà Phật gọi là Phước đức. Chính cái phước đức này sẽ mang lại sự giàu có cho chúng ta trong hậu kiếp. Rất nhiều người đi chùa cầu nguyện để được giàu sang, hoặc những người khác tính ngày tính đêm, tìm trăm mưu ngàn chước để được làm giàu. Họ làm như vậy bởi vì họ không hiểu giáo lý của nhà Phật mà thôi. Nếu chúng ta thấy có người hiện tạigiàu sang phú quý, là tại vì kiếp trước họ đã tạo rất nhiều Phúc đức cho nên kiếp này phúc đức mang đến cho họ. Họ không cần phải đi chùa, hay họ không cần tính ngày tính đêm thì giàu sang vẩn gỏ cửa nhà họ như thường.
 

 Còn những người đem Pháp thí giúp đở người khác thì họ đã tự gieo cho mình rất nhiều Công đức. Những công đức nầy sẻ đền bù cho họ thật nhiều trí tuệkiếp sau. Nói một cách khác là nếu họ không thoát ra khỏi vòng luân hồi thì kiếp sau họ sẽ là những người thông minh đỉnh đạt.
 

 Sau cùng, những ngưới tu hành thí vô úy thì kiếp sau sẽ đem lại cho họ một cuộc sống khỏe mạnh và trường thọ.

 Nói tóm lại, Bố thí Ba-la-mật là một việc làm cao cả, vừa độ ngừơi mà vừa độ mình, và nó là một chiếc bè để đưa chúng ta đến bờ Giác ngộ, từ địa vị phàm phu đến quả vị Bồ-tát.
 

 Tại sao một thân mà có bảy báu Bố thí?

Phật trả lời rằng:”Nếu chẳng tham là bố thí, như con mắt chẳng tham sắc tốt và các vật đẹp là sắc bửu bố thí. Lỗ tai chẳng nghe tiếng vui đờn ca xướng hát là thính bửu bố thí. Lỗ mủi chẳng tham ngửi hơi thơm tho vật là là hương bửu bố thí. Cái lưỡi chẳng tham vị béo ngọt ngon là vị bửu bố thí. Cái thân chẳng tham mặc quần áo tốt đẹp là xúc bửu bố thí. Ý chẳng tham danh lợi, ân ái dục tình là pháp bửu bố thí. Tánh chẳng tham những sự dục lạc trong thế gian là Phật bửu bố thí. Nếu có được bảy báu bố thí nầy thì phước đức hơn là bảy báu trong thế gian như kim, ngân, lưu ly, trân châu, mã não, san hô, hổ phách”. 

v Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng tại sao không tu thì chẳng thành Phật?

 Phật dạy rằng: ”Không phải là không thành Phật, chỉ vì nghiệp chướng rất nhiều. Tại sao? Chúng sanhmê muội điên đảo từ đời vô thỉ đến nay, chẳng trồng căn lành mà chỉ tạo ác nghiệp, oan oan buộc nhau, nghiệp nghiệp kéo nhau, bên nầy chẳng chịu buông bên kia, bên kia chẳng chịu tha bên nầy, kết thành cái lưới nghiệp dẫy đầy trong thế gian, cho nên thường vào ra ba đường lại sáu nẻo, gặp gở nhau ăn nuốt lẫn nhau, báo ứng xoay vần không bao giờ dứt. Dù gặp chánh pháp, nhưng căn cơ mờ tối, ma chướng chập chồng, đường đạo khó phát triển nên chẳng đặng thành chánh quả”.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 24024)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21750)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23327)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27516)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26582)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29336)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 20213)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 20941)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 29848)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 22150)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 24408)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29294)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 32169)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21093)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 21610)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28110)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 29218)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20637)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28315)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23660)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33212)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31868)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39658)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 19397)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26420)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24846)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21761)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 29157)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22577)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20481)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23547)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21250)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35359)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24562)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
(Xem: 31361)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26239)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 31255)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20297)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22985)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30099)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21615)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20299)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 20797)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 28825)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34772)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 22580)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21401)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 19363)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 29546)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35194)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28851)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 37934)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21352)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 27050)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27250)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24090)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20874)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34339)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22513)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25151)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant