Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

43. Tổ Bồ Đề Đạt Ma

23 Tháng Hai 201100:00(Xem: 8153)
43. Tổ Bồ Đề Đạt Ma

PHÁ MÊ KHAI NGỘ
 Lê Sỹ Minh Tùng

43. Tổ Bồ Đề Đạt Ma
(Bodhidharma)

 Khi nói về Thiền tông mà không viết về Tổ Bồ Đề Đạt Ma là một sự thiếu sót lớn. Ngài là người đã khai sáng ra Thiền tôngTrung quốc vào khoảng đầu thế kỷ thứ 5 sau Tây lịch. Chính Ngài đã đem một luồng sinh khí mới cho hệ thống tư tưởng của Trung Hoa mà ngay chính cả Phật giáo lúc bấy giờ cũng có cái nhìn mới từ phương cách tu hành cho đến ý nghĩa cao siêu của đạo Phật

 Ngày nay chúng ta đang sống trong một thế giới tương đối khá phức tạp. Cuộc sống vật chất ràng buộc cộng thêm sự căng thẳng về tâm linh giữa xã hộigia đình làm cho tâm tư của chúng ta bồn chồn lo lắng, khó được yên vui. Từ lúc thức dậy đến khi đi ngũ thì ý niệm đua nhau sinh khởi trong tâm thức của chúng ta. Đức Phật gọi đó là vọng tưởng, phiền não. Muốn cho tâm được yên tịnhtrí tuệ được sáng suốt thì chúng ta cũng nên quan tâm đến thiền định. Thiền ở đây không phải là ngồi kiết già và quay mặt vô tường chín năm như tổ Bồ Đề Đạt Ma đã làm khi xưa, mà điều căn bảnchúng ta phải loại bỏ bớt vọng tưởngphiền não. Cũng như khi đi, khi đứng, khi ngồi chúng ta phải thư thả, tìm thú an nhàn thanh tịnh nơi cảnh vật chung quanh. Chúng ta thường nghe nhiều người thực tập hành thiền, tọa thiền…

 Nếu chúng ta đi bộ với dáng dấp tự nhiên thanh thản, tâm tư lắng đọng, trút bỏ hết phiền não và tâm chỉ nghĩ về việc tốt hay Phật thì chúng ta đang hành thiền vậy. Thiền không nhất thiết chỉ dành cho hạng thượng căn lợi trí mà rất nhiều giới trẻ ngày nay đang thực tập môn hành thiền cũng như tọa thiền. Thiền không đòi hỏi chúng ta là những người mới bắt đầu phải ngồi kiết già nhiều giờ như những vị đại sư. Chúng ta có thể ngồi bán kiết già hay ngồi bất cứ tư thế nào miễn thoải mái là được. Nhắm mắt để tâmyên tịnhtoàn thân thanh thản làm cho khí huyết lưu thông điều độ còn tâm chỉ nghĩ về Phật hay những điều thiện thì chúng ta có thể thực tập môn tọa thiền được rồi. 

Tổ Bồ Đề Đạt Ma sanh tại miền Nam Ấn Độ và là con của vua Hương Chí. Sư phụ của Ngài là tổ Bát Nhã Đà La đã khuyên Ngài sau nầy nên sang Trung Hoa để truyền pháp. Khi đã đạt được đạo, Ngài dùng đường thủy để rời Ấn Độ và mất đến gần ba năm mới đến được Quảng Châu. Lúc bấy giờ Hoàng đế Trung quốcLương Võ Đế, khoãng năm 520 sau T.L, vì nghe danh nên mời Ngài đến diện kiến

Vua Võ Đế hỏi: 

- Trẫm từ khi lên ngôi đến nay thường cất chùa, chép kinh, độ Tăng Ni không biết bao nhiêu, vậy có công đức gì chăng?” 

Tổ đáp:

- Đều không có công đức! 

Tại sao? Bởi vì những việc ấy là nhân hữu lậu, chỉ có quả báo nhỏ ở cõi người, cõi trời, như bóng theo hình, tuy có mà chẳng có thật! Thế nào là công đức chân thật? Trí thanh tịnh trọn mầu, thể tự không lặng, công đức như thế chẳng thể do thế gian mà cầu”. Lý do mà Tổ nói như vậy là vì lúc bấy giờ Pháp tu của số đông theo đạo Phật chú trọng về hình thứcchấp tướng (có giống như thời nay không?) nên Tổ chỉ thẳng chỗ thiếu sót đó cũng như muốn nhắn nhủ là cần phải thấy tâm thì mới là công đức chân thật.

Sau câu chuyện trao đổi trên, tuy thấy nhà vua là người có lòng với đạo Phật, nhưng căn cơ còn thấp kém nên Ngài giã biệt để đến chùa Thiếu Lâm ở Trung Sơn. Ở tại chùa Thiếu Lâm nầy, Ngài đã ngồi suốt 9 năm xây mặt vào tường nên được gọi là “Bích quán Bà La Môn”. Sau đó Ngài thâu nhận được người đệ tử tên là Thần Quang (487- 593) để truyền pháp. Ngài Thần Quang sau đổi tên là Huệ Khả là vị tổ Thiền tông thứ hai tại Trung Hoa. Sau 9 năm, tổ Bồ Đề Đạt Ma trao áo cà sa và bát báu cùng bốn quyển của bộ kinh Lăng Già cho tổ Huệ Khả. Sau đó không lâu, tổ viên tịch vào năm 529 và nhục thân của Ngài được nhập tháp tại chùa Định Lâm, núi Hùng Nhĩ. Mặc dầu thiền tông đã được chính Đức Phật Thích Ca truyền cho ngài Ma Ha Ca Diếp tại hội Linh Sơn mà mãi cho đến tổ Bồ Đề Đạt Ma là tổ thứ 28 thì Thiền tông mới chính thức được truyền sang Trung quốc

Trước đó vài trăm năm thì có ngài Cưu Ma La Thập (khoảng 400 sau T. L), vị tăng Ấn Độ, đã dịch rất nhiều kinh điển ra tiếng Trung Hoa để giúp cho việc hoằng dương Phật pháp. Nhưng việc tu hành thời bấy giờ là thường tụng các kinh điển Đại thừa cũng như áp dụng đời sống tăng đoàn theo khuôn khổ của Ấn Độ. Mãi cho đến khi tổ Bồ Đề đem Thiền tông đến Trung Quốc thì chính ngài đã gieo hạt giống mới nầy vào trong xã hội mà có tầm ảnh hưởng sâu rộng bởi thuyết Khổng Mạnh. Hạt giống nầy thực sự đã nảy mầm và trở thành cây tươi tốt trong mấy ngàn năm qua. Thiền tông đã mang lại những ảnh hưởng lớn lao, sâu rộng cho xã hội Trung Hoa, Đại Hàn, Nhật BảnViệt Nam thì công lao của tổ Bồ Đề Đạt Ma thật là vĩ đại.

Đường lối tu hành của Thiền tông thì có phần khác hẳn so với các pháp tu khác trong đạo Phật. Tổ Bồ Đề Đạt Ma đã thâu gọn về pháp tu của Thiền tông trong câu:

 “Bất lập văn tự, Giáo ngoại biệt truyền, Trực chỉ nhân tâm, Kiến tánh thành Phật” 

Nghĩa là: ”Chẳng lập văn tự, Truyền ngoài giáo lý, Chỉ thẳng tâm người, Thấy tánh thành Phật”. Tại sao? Bởi vì giáo lý căn bản của Phật pháp là không có pháp nào hết cho nên cái pháp “không có pháp nào hết” mới chính là Phật pháp. Do đó khi tu tới chỗ thành tựu là chỉ có pháp “không có pháp nào hết”, vậy thì không có văn tự nào có thể diễn tả được pháp đó. Thế thì pháp đó cũng phải nằm ngoài giáo lýgiáo lý cũng là văn tự. Trong kinh Duy Ma Cật, khi Bồ Tát Văn Thù được hỏi thế nào là nhập pháp môn Bất nhị (vào pháp môn không hai). Bồ tát Văn Thù trả lời: ”Theo ý tôi, nơi tất cả vô ngôn vô thuyết, vô thị vô thức, lìa nơi vấn đáp. Ấy là nhập pháp môn bất nhị”. Có nghĩa là không có văn tự , lời nói , ngôn ngữ đó mới thật là vào pháp không hai. Còn ý nghĩa của lời nói của Tổ là không còn văn tự, ngôn ngữ nào, tức là kể cả kinh điển có thể dùng để diễn tả được.

Còn hai câu: ”Trực chỉ nhân tâm, Kiến tánh thành Phật” có nghĩa là chỉ thẳng ngay cái tâm của người tu hành. Nếu hiểu được cái tâm đó thì hiểu được bản tánh của tâm mình cùng vạn vật. Vì thế, nếu người nào thấy được “tánh” thì sẽ thành Phậtchúng ta gọi là giác ngộ. Tổ nói rất đơn giản là: “Nếu thấy tánh tức là Phật, không thấy tánh tức là chúng sanh”. Như thế thì giữa Phật và chúng sanh, hay nói một cách khác là giữa người giác ngộ và kẻ si mê chỉ khác nhau ở chỗ có thấy “tánh” được hay không. Vậy muốn đạt được “tánh” đòi hỏi người tu phải tự lực, biết lìa bỏ mọi hình tướng mà trong đó có cả ngôn ngữ, văn tựkinh điển. Tổ xác định:

”Dầu có giỏi nói được ngàn kinh, muôn luận mà không thấy “tánh” thì vẫn là phàm phu, chẳng phải là pháp Phật”. 

Ý của Tổ là nhắn nhủ những kẻ tu hành tới mức khá cao mà vẫn còn bám lấy kinh luật thì không thực hành đúng mức để giải thoát cho mình. Cũng như người dùng bè qua sông, nếu đã tới bến rồi mà vẫn ôm bè không chịu buông thì làm sao bước được lên bờ giác ngộ. Còn chúng ta là những người mới rời bờ được một chút mà đã muốn buông bè thì dĩ nhiên là chìm lẹ. Thật vậy, chúng ta tu hành chưa tới đâu mà đã buông bỏ kinh luật thì chắc chắn sẽ đi lầm đường lạc lối.

Phương pháp tu Thiền tông mà tổ đã để lại là :”Thiếu thất Lục Môn” hay: ”Sáu cửa vào động Thiếu Thất”. Sáu cửa đó là: Tâm kinh tụng, Phá tướng luận, Nhị chủng nhập, An tâm pháp, Ngộ tánh luận và Huyết mạch luận.

Tâm kinh tụng: Tổ nhắc lại từng câu trong Bát Nhã Tâm Kinh và sau mỗi câu đều có những câu giảng. Tổ chỉ rõ tướng “không” của muôn pháp để chúng ta hiểu được cái thể “Như Lai không tướng” vốn thanh tịnh. Ý Tổ muốn chúng ta phá cái chấp của “có” hoặc “không” thì tâm sẽ tự tại hết lo âu.
 

v Phá tướng luận: Phần nầy thì gồm những câu hỏi và trả lời. Mỗi câu hỏi đều được Tổ giải đáp rõ ràng để giúp cho người tu thiền thấu hiểu. Tổ nói: ”Nếu muốn thấy được tâm thì cần phải bỏ những chấp về tướng”. Bởi vì nếu còn chấp tướng thì chúng ta còn hướng ngoại, quên tâm nên không thể thấy được tâm.
 

Nhị chủng nhập: Phần nầy chỉ cách tu hành một cách cụ thểgồm có hai phần: lý nhập và hạnh nhập. 
 

 1) Lý nhập: là mượn “giáo” để ngộ “tông” có nghĩa là tất cả sinh linh đều chung đồng một thể tánh, chỉ vì khách trần bên ngoài và vọng tưởng bên trong che lấp nên chân tánh không hiện lộ được.

 2) Hạnh nhập thì có bốn hạnh: Báo oán hạnh là khi gặp cảnh khổ nên hiểu là vì lúc trước có gây ra nghiệp dữ nên nay phải nhẫn nhục chịu. Tùy duyên hạnh là nay chúng ta được quả báo tốt cũng là do nhân lành tạo ra thủa xưa, mọi khổ vui đều do nhân duyên sanh, nhưng tâm người không vì vậy mà tăng thêm hay giảm bớt. Vô sở cầu hạnh được hiểu là muôn vật đều là không, nên không cầu mong gì mới thực là đạo hạnh. Sau cùng là xứng pháp hạnh nói về cái lý thanh tịnh của tự tánh, tức cái thể tánh tánh thanh tịnh của mình, nên vẫn tùy xứng theo pháp mà hành động nhưng không có chấp.

An tâm pháp: Nếu hỏi: Các pháp đã là không thì lấy gì tu đạo? Trả lời: Nếu có dựa vào gì thì cần tu đạo. Nếu không có gì để dựa, tức chẳn cần tu đạo. Chẳng thấy gì hết, gọi là thấy đạo. Chẳng làm gì hết, gọi là hành đạo. Cũng như khi mê thì người đuổi theo pháp. Còn lúc tỉnh, thì pháp đuổi theo người.
 

v Ngộ tánh luận: Phần nầy chỉ những điểm quan trong khi tu hànhphân biệt được giữa mê và ngộ cũng như cách tu hành để đạt được ngộ. Khi mê thì lục thức, ngũ uẩn đều là pháp phiền não, sanh tử. Khi ngộ thì sáu thức, năm uẩn đều là pháp Niết bàn, không sanh tử. Khi mê thì có Phật, có pháp. Khi ngộ rồi thì không Phật, không pháp. Tại vì sao? Vì ngộ tức là Phật pháp.
 

Huyết mạch luận: Phần nầy chỉ rõ nếu không thấy tánh thì việc tu hành sẽ không thể đưa đến chỗ đạt được đạo. Nếu muốn tìm Phật hảy cần thấy tánh. Tánh tức là Phật. Nếu chẳng thấy tánh thì chạy lầm đường. Giữ giới chỉ là vô ích mà thôi. Tổ nói thêm: ”Nếu không thấy tánh thì dầu giỏi nói mười hai bộ kinh, vẫn là ma nói. Chúng sinh điên đảo bởi vì không biết tự tâm là Phật nên cứ hướng ngoại mà cầu cạnh do đó suốt ngày cứ lăng xăng niệm Phật, lạy Phật”.

Sau cùng nhờ công lao của tổ mà Thiền tông sau gần mấy ngàn năm vẫn còn tồn tại mạnh mẽ tại nhiều nước Á châu và ngày nay Thiền tông bắt đầu phổ biến rộng rãi trong những cộng đồng của Tây phươngảnh hưởng cũng như phương pháp ứng dụng rất là thực tiển và phổ cập.

Khi nói về chữ “Hảo tâm”, Phật dạy rằng: ”Hai chữ hảo tâm ít người làm được, nếu có lòng hảo tâm, làm việc lợi ích cho người chẳng cần trả ơn, làm việc giúp người chẳng cần quả báo, cúng dường cho người chẳng cần phước báo. Khó bỏ xã mà bỏ xã được, khó nhịn mà nhẫn nhịn được, khó làm mà làm được, khó cứu mà cứu được chẳng luận bà con thân thích hay kẻ lạ người dưng, lấy tâm bình đẳng cứu giúp làm đúng sự thật. Chẳng phải miệng nói hay mà lòng không làm, con người cái miệng nói hảo tâm mà lòng không làm từ thiện, còn người hiền tâm thường làm những việc tốt mà miệng chẳng khoe khoang. Giúp người mà chẳng cầu danh vọng cho mình thì mới thật là hảo tâm”.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 24030)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21754)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23328)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27517)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26583)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29337)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 20213)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 20943)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 29850)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 22151)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 24412)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29297)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 32174)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21093)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 21615)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28110)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 29224)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20637)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28316)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23664)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33217)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31869)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39660)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 19402)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26425)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24847)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21761)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 29159)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22581)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20481)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23552)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21250)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35360)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24565)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
(Xem: 31366)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26247)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 31263)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20299)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22988)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30103)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21618)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20300)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 20799)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 28826)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34772)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 22581)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21402)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 19367)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 29546)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35201)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28851)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 37940)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21353)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 27056)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27250)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24092)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20874)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34341)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22513)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25151)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant