Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

22. Trì Giới Ba-La-Mật

23 Tháng Hai 201100:00(Xem: 8807)
22. Trì Giới Ba-La-Mật

PHÁ MÊ KHAI NGỘ
 Lê Sỹ Minh Tùng

22. Trì Giới Ba-La-Mật

Mục đích của Phật giáo là đưa chúng sinh đến bờ Giác ngộ. Nhưng con đường đưa đến chỗ toàn chân, toàn mỹ nầy đòi hỏi ở chúng sinh một ý chí kiên trì và một lòng sắt đá để giữ mình theo giáo luật. Theo Đức Phật thì giáo luật có một giá trị tuyệt đối bởi vì nó là yếu tố chính để quyết định sự thành công cũng như sự thất bại trong vấn đề tu đạo. Cái khó là chúng ta không nhất tâm và tập trung tư tưởng để theo con đườngĐức Phật đã vạch ra, mà ngoại cảnh ô hợp đã làm chúng ta chán nản mà chùn bước. Bởi thế trước khi nhập diệt, Đức Phật đã căn dặn nhiều lần về vấn đề giáo luật. Phật dạy:

 “Gặp thời không có Phật, hãy lấy giới luật làm thầy”. 

 Đức Phật đã cho chúng ta thấy tầm quan trọng của giáo luật trong việc tu đạođạt được đạo. Dầu chúng ta có thể thông hiểu giáo lý của đạo Phật, nhưng đem nó áp dụng vào trong cuộc sống hàng ngày để chứng được chân như là hai điều khác nhau. Thời nay, người muốn tu hành thì nhiều mà kẻ đạt được kết quả tốt thì rất hiếm. Tại vì sao? Câu trả lời đơn giảndục vọng ngoài đời đã làm họ mù quáng mà quên đi giới luật. Thật vậy, giáo luật của đạo Phật chính là kim chỉ Nam để giúp chúng ta khỏi bị lầm đường, lạc lối. Một khi đã biết giới luậtcố tình vi phạm thì tất cả công phu tu tập bao năm cũng đổ theo sông theo biển mà thôi. Chẳng những phàm phu phải giữ giới luật, mà chính cả Bồ-tát cũng phải noi theo. Vì thế trong kinh Phàm Vọng có nói: “Trì giới sáng như mặt trời, quý báu như châu báu, các vị Bồ-tát đều do trì giới thanh tịnh mà thành Chánh giác”.

 Vậy thế nào là trì giới?

 Trì là giữ chặt chẽ, còn Giới là những điều răn dạy, răn cấm. Đây chính là những quy luậtĐức Phật đã đặt ra để hướng dẫn đệ tử của Ngài đi vào con đường chánh đạo.

 Vậy những ai phải theo giới luật?

 Tùy theo căn cơ của chúng sinh và cũng tùy theo phương cách tu hành, Đức Phật đã chế ra rất nhiều giới luật để họ noi theo đó mà tu hành. Trì giới được chia ra làm ba cấp: giới tu tại gia, giới tăng sĩ và Bồ-tát giới.

 Giới tu tại gia: là những người chưa xuất gia, cũng có thể gọi là cư sĩ tại gia thì chỉ cần tuân theo ngũ giới là đủ.

Theo Khổng giáo thì có tam cương, ngũ thường còn phía Phật giáo thì có tam quy, ngũ giới. Người theo đạo Nho thì không thể theo tam cương mà bỏ ngũ thường. Còn người Phật tử thì không thể chỉ thọ tam quy mà không trì ngũ giới.

Vậy ngũ giới gồm có những gì?

1) Không được sát sinh: Phật dạy chúng sinh không được giết hại một ai cả, từ loài người đến loài vật. Đây là nghiệp nặng nhất. Tại sao thế? Quý vị thử hình dung khi một người đâm lưỡi dao vào cổ một con bò để thọt huyết nó. Vì phản ứng sinh tồn, nó rống lên, rồi dãy dụa và cố tranh đấu với tử thần để bám víu lấy sự sống. Những hính ảnh ghê rợn kia làm sao có thể xóa bỏ trong giấc ngủ của quý vị được. Khi giết một con vật như thế thì chính mình đã tạo ra một ác nghiệp rồi. Và ác nghiệp thì dẫn chúng ta đi lên đi xuống, lang thang lẫn thẩn trong vòng sinh tử. Giết một con vật to lớn mà để tự vệ hay vô ý thì cái quả còn nhẹ hơn là giết một con chuồn chuồn mà với ác ý là giết nó để cho vui.

2) Không được trộm cướp: Trộm cướp là cưỡng chiếm tài sản của kẻ khác. Khi chúng ta đoạt tài sản của kẻ khác thì chúng ta có thể nhất thời được sung sướng. Nhưng kẻ khác thì lại đau khổ bởi vì đối với họ ”tiền tài là huyết mạch”. Khi trộm cướp tài vật của kẻ khác thì họ sẽ đau khổ vì vậy chúng ta đã tạo ra ác nghiệp nữa rồi. Đó là chưa kể cái quả trước mắt là vào tù ra khám, tương lai tăm tối. Nếu muốn nuôi dưỡng tâm từ bi thì chúng ta nhất định không nghĩ đến việc nầy.

3) Không được tà dâm: tà dâm là muốn nói đến sự dâm dục thị phi hoặc phi pháp. Khi vợ chồng có cưới hỏi đàng hoàng thì gọi là chánh. Ngoài ra mọi sự lén lút, lăng chạ là phi pháp. Thông thường người có ý tà dâm thì lúc nào tâm của họ cũng nghĩ ngợi bất chánh về việc chơi bời lã lơi. Muốn tâm được thanh tịnh thì chúng ta phải tránh xa cái tật xấu nầy và cố gắng tu luyện để loại bỏ những tư tưởng xấu đó đi. Thêm nữa, chúng ta phải loại bỏ tất cả những hình ảnh bất thiện trong tâm tưởng cũng như những cám dỗ trong đời. Tà dâm thì tâm bất tịnh đó là chưa kể đến nhà tan cửa nát, vào tù ra khám.

4) Không được vọng ngữ: Vọng ngữnói dối, nói thêu dệt, nói lưỡi hai chiều và nói lời hung ác. Tôn chỉ của đạo Phậttôn trọng sự thật. Một khi nói dốichúng ta đã lấy lòng ích kỷ, ác độc để hại người cho thỏa lòng dục vọng đen tối của mình. Mà đã nói dối thì sau nầy còn ai tin mình nữa. Bởi thế cổ nhân có câu: “Nhân vô tín bất lập”. Nhưng khi vì lời nói mà làm hại người thì chúng ta đã tạo thêm một ác nghiệp nữa rồi. Đó là chưa kể “ác lai ác báo”.

5) Không được uống rượu: Rượu thì có chất men mà chất men thì làm người say. Khi chúng ta tu Phật là mình muốn bài trừ ô nhiễm ở trong tâm để phát sinh trí tuệ. Uống rượu thì làm cho chúng ta say, mà một khi đã say thì trí tuệ của chúng ta bị lu mờthân thể càng thêm bịnh hoạn. Tệ hại hơn nữa là khi say thì chúng ta có thể làm bất cứ chuyện tầy trời nào cũng được. Chẳng hạn như giết người, nói năng bậy bạ, tạo tai nạn khi lái xe, không kìm chế được nhân tính và tạo ra ác nghiệp mà chính mình cũng không hay không biết.

 Năm thứ nghiệp nói trên đây có ảnh hưởng rất lớn, rất nặng cho việc luân hồi sinh tử của chúng ta. Người giữ được trọn vẹn thì thành Thánh, bằng giữ chẳng trọn thì chịu nhiều kiếp trầm luân đọa lạc, hể mất thân người thì muôn kiếp khó trở lại được.

 Vậy tạo nghiệp gì bị đọa làm nghiệp quỷ?

 Phật dạy:”Những chúng sinh ăn ở gắt gao, tiền của chẳng thí, tham mến ăn mặc, lường gạt lấy tiền của công đem thọ dụng riêng. Có người nghèo khổ xin ăn, một đồng chẳng thí lại thêm mắng chữi, cứ lo cho mình no ấm không thương người đói lạnh. Đến khi chết rồi sẽ bị đọa trên đường ngã quỷ, chịu đói khổ sở, cái cuống họng nhỏ như cây kim, thức ăn nuốt chẳng xuống, cái bụng lớn như cái trống đồng, như hòn núi, thoáng gặp đồ ăn uống thì đồ ăn uống bỗng hóa thành đồng sôi sắt nóng, đói cho đến khi miệng hóa ra lửa, lỗ mũi ra khói, hình thể ốm đen để đền đủ tội rồi mới hết nghiệp khổ.

 Còn những nghiệp gì bị đọa làm súc sanh?

 Phật lại dạy tiếp:”Những chúng sanh tham ăn rượu thịt, giết hại cầm thú để bày tiệc ăn chơi đàn ca vui sướng sẽ trả quả làm súc sanh để đền mạng trước. Lại có người mượn vay tiền bạc của người mà cố đoạt chẳng trả, quả báo làm súc vật trả nợ lại cho người và phải trả cho hết cái nghiệp đó mới ra khỏi luân hồi”.
 
 

 Giới tăng sĩ: là những người đã từ bỏ cảnh trần tục, chán ngán nhân tình thế thái và nguyện noi gương theo Đức Phật để được tự độ và độ tha. Có sự khác biệt giửa chữ tăng sĩ và xuất gia.

Chúng ta thường hiểu là kẻ xuất gia là người từ bỏ gia đình đến nương náo cửa chùa để tu hành. Nhưng theo kinh Phật thì cửa chùa vẫn là điền trạch chi gia, do đó kẻ xuất gia là kẻ phải xuất cho được ba điều: phiền não, sanh tửtam giới.

Trong phần tiểu sử Đức Phật, chúng tôi đã ghi rất kỹ về sự thành lập tăng đoàn của Ngài. Trong đó thì Ngài chủ trương “Y pháp bất y nhân” có nghĩa là tăng đoàn phải lấy tam bảo làm trung tâm chớ không lấy một cá nhân đặc biệt nào để làm đối tượng cả. Nhưng trên thực tế, sau khi Đức Phật nhập diệt thì khuynh hướng đó được xoay qua thành “trọng người nhẹ pháp”. Điều đó có nghĩa là trọng vị tăng hơn là giáo pháp và như thế tam bảo không còn là trung tâm nữa mà tam bảo được thế bằng tăng bảo.

Vậy có những giới luật nào cho quý vị tăng sĩ?
 Dựa theo kinh điển của Phật giáo thì một người ở lứa tuổi từ 14 đến 18 mà muốn xuất gia thì được gọi là Sa di. Chú Sa di nầy phải giữ đúng 10 giới luật. Đến khi được 20 tuổi thì chú Sa di mới được thọ giới Tỳ kheo. Nếu chú Sa di nào chưa đủ điều kiện thì phải học tập thêm vài năm nữa thì lúc đó mới sẵn sàng để thọ giới Tỳ kheo trở lại. Khi đã trở thành Tỳ kheo rồi thì họ phải giữ 250 giới.

 Còn về phía nữ giới thì gọi là Sa di ni. Khác với mấy chú Sa di, mấy tiểu Ni cô Sa di ni nầy phải thọ thêm giới “Thức xoa ma ni”. Giới nầy thì gồm có 6 luật căn bản. Đó là: không dâm dục, không trộm cắp, không sát sinh, không nói dối, không uống rượu và không được ăn ngoài giờ ấn định. Những tiểu Ni cô nầy phải thọ giới nầy khoảng 2 năm thì mới được thọ giới Tỳ kheo ni. Một khi đã trở thành Tỳ kheo ni thì họ phải giữ 348 điều giáo luật. Thêm nữa, đối với những thiếu phụ đã có chồng nhưng đã ly dị hay chồng chết và hiện tại còn đang độc thân, nếu muốn đi tu thì phải đợi đến 10 năm mới được thụ giới Thức xoa ma ni

 Lễ truyền giới Tỳ kheo thì được gọi là Giới đàn truyền giới hay truyền hương. Bởi vì khi thọ giới, người Tỳ kheo được đội 3 huyết hương trên đỉnh đầu. Hương thì từ từ cháy còn vị Tỳ kheo cứ tiếp tục tụng kinh cho đến khi hương tàn. Vị nào chịu không nỗi thì thi lại. Đây là thử thách sự trì tâm của họ đối với ngoại cảnh. Một khi đã chú tâm tụng kinh Phật thì tâm chỉ nghĩ về Phật mà thôi, còn cảm thấy bị đau đớn tức là tâm bị ô nhiễm. Khi được trao giới Tỳ kheo thì vị đó được nhận: Y (áo cà sa), bát (dụng cụ để khất thực), tọa cụ (tấm vải để trải trên đất mà ngồi) và một dụng cụ lọc nước uống. Đối với một kẻ tu hành chân chính thì đây là sản nghiệp bất khả ly thân của họ.

 Trong kinh Lăng Nghiêm, Phật rất quan tâm về trì giới, Ngài dạy: ”Chúng sinh giữ trì giới thì tâm sẽ được thanh tịnh. Nhờ tâm thanh tịnh mới phát sinh ra trí tuệ để phá trừ vô minh. Vô minh hết thì chơn tâm tự hiện bày”. Nhưng kinh nầy lại tiến xa thêm một bước nữa, đó là: ”Trì giới là chỉ cho tâm giới. Có nghĩa là nếu thân đã không sát sinh, trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ và tâm cũng không nghĩ tưởng đến việc sát, đạo, dâm, vọng thì cái “biết mình đã đoạn trừ” cũng không còn nữa”. Thật vậy, nếu tâm vẫn còn một chút ít vọng niệm gì thì tâm chưa hoàn toàn thanh tịnh. Nếu tâm chưa thanh tịnh thì giới thể chưa được viên mãn.

 Hơn nữa, trọng tâm của đạo Phậtxây dựng dựa trên triết lý luân hồi nhân quả. Chẳng hạn như trong Tứ Diệu Đế thì tập đế là nhân mà khổ đế là quả của đường sanh tử. Còn đạo đế là nhân và diệt đế là quả của chiều giải thoát. Cũng như trong chúng ta, Phật tánh là nhân mà được thành Phật viên mãn tự tại là quả. Nếu chúng ta trong kiếp nầy bị vô minh, vọng tưởngái dục làm mê muội để gây ra lắm nghiệp căn thì cái quả xấu kia ai lãnh cho mình? Một khi nghiệp căn đã tạo rồi thì dầu có Phật hoặc Bồ-tát cũng không thể cứu chúng ta được. Nếu Đức Phật có thể độ cho những người chung quanh được giải thoát khỏi cảnh sanh tử luân hồi thì Ngài đã độ hết cho tất cả thân bằng quyến thuộc của Ngài rồi. Nhưng chính Ngài cũng phải dạy cho họ lo giữ ngũ giớitu thập thiện để tự giải thoát cho mình. Đó là “ai tu người ấy chứng” vậy.

 Người Phật tử phải nhận thức cho rõ ràng là người tu tại gia cũng như hàng tăng sĩ đều cùng nhắm chung một mục đíchcố gắng tu luyện để được thoát khỏi lục đạo luân hồi. Bởi thế kinh Pháp Bảo Đàn có nói:” Nếu muốn tu hành, ở nhà cũng được, không cần phải ở chùa. Người tại gia mà biết tu hành thì như người phương Đông có tâm thiện. Còn kẻ ở chùa lại không tu thì như người ở phương Tây có tâm ác. Chỉ cần tâm thanh tịnh, đó là tự tánh Tây phương”.

 Bồ-tát giới: đây là giới mà phật tử tại gia cũng như hàng tăng sĩ phải thọ trì sau khi đã phát tâm Bồ đề để tu Bồ tát hạnh ngõ hầu có cơ hội làm Phật sựhóa độ chúng sanh. Bồ-tát giới dạy chúng ta không nên làm một việc ác nào, quyết tâm làm tất cả việc lành và cũng quyết tâm tu hành từ, bi, hỷ, xả. để làm các lợi ích cho tất cả chúng sinh cũng như hóa độ cho muôn loài.

 Thủa xưa có hai vị Tỳ kheo từ phương xa đến để yết kiến Phật. Trên đường đi, họ phải băng qua một sa mạc. May mắn thay họ tìm thấy một vũng nước nhưng trong nước lại chứa đấy những sinh vật tí hon. Một vị vì sợ phạm giới không dám uống nước nên bị chết khát. Còn vị kia nhờ uống nước nên sống được và tìm đến yết kiến Phật. Thấy ông ta , Phật quở rằng: “Ông tỳ kheo kia giữ giới không uống nước, tuy chết nhưng ông đã thấy ta trước rồi. Còn ông, không giữ giới, tuy sống, đến yết kiến Ta, nhưng ông lại cách Ta nghìn dặm”.

Nói tóm lại, trì giới Ba-la-mật có một hiệu quả lớn lao cho việc tu hành của người Phật tử. Bởi vì làm được như thế thì họ đã biểu hiện sự thực hành bổn phận của họ một cách đứng đắn và sẽ mang vô lượng công đức đến cho họ. Hơn nữa, trì giớigiá trị hơn cả Bố thí giới bởi vì người Phật tửtài thí, pháp thí mà không có trì giới thì không thể nào đạt thành chánh quả được. Lý do là người nầy vừa tạo phước mà cũng vừa gây tội. Do chỗ không trì giới nên họ gây ra nghiệp thiện ác đủ thứ thì làm sao mà chứng quả Thánh được.

 Khi làm những Phật sự truy tiễn cho vong nhân, chúng sinh nên hồi hướng công đức ấy đến mọi loài chúng sinh trong pháp giới. Như thế công đức sẽ càng thêm lớn mà lợi ích của vong nhân đó cũng được tăng thêm nhiều.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 24029)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21752)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23328)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27517)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26582)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29336)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 20213)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 20943)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 29850)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 22151)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 24410)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29295)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 32169)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21093)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 21614)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28110)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 29218)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20637)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28315)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23662)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33215)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31869)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39659)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 19399)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26422)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24846)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21761)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 29159)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22580)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20481)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23547)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21250)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35359)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24565)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
(Xem: 31362)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26242)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 31257)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20299)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22987)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30100)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21615)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20299)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 20798)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 28826)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34772)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 22581)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21401)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 19364)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 29546)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35197)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28851)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 37935)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21352)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 27052)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27250)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24090)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20874)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34340)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22513)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25151)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant