- 1. Tiểu sử Đức Phật Thích Ca
- 2. Đời là bể khổ
- 3. Xuất gia tìm đạo
- 4. Thành đạo
- 5. Hóa độ chúng sinh
- 6. An Cư Kiết Hạ và Tịnh Xá
- 7. Pháp Nạn
- 8. Tam tạng kinh
- 9. Đức Phật nhập diệt
- 10. Lời Tán Thán Đức Phật
- 11. Phổ Hiền Bồ Tát
- 12. Văn Thù Sư Lợi Bổ Tát
- 13. Nghiệp và Nghiệp Quả
- 14. Luân Hồi
- 15. Sự Thờ Cúng và Lễ Bái
- 16. Nhân Quả
- 17. Giới thiệu Kinh Pháp Hoa
- 18. Nhẫn nhục
- 19. Từ Bi Hỷ Xả
- 20. Bố Thí Ba-la-mật
- 21. Ý Nghĩa Chữ Vạn Trong Phật Giáo
- 22. Trì Giới Ba-La-Mật
- 23. 32 Tướng Tốt Của Đức Phật
- 24. Quy y Tam Bảo
- 25. Sự Tích Kinh Lăng Nghiêm
- 26. Lục Căn, Lục Trần, Lục Thức
- 27. Giới Thiệu Kinh Hoa Nghiêm
- 28. Vô Thường – Vô Ngã
- 29. Con Người Từ Đâu Đến
- 30. Kinh Kim Cang Bát Nhã
- 31. Tứ Diệu đế
- 32. Khổ đế
- 33. Tập đế
- 34. Diệt đế
- 35. Niết bàn
- 36. Đạo đế
- 37. Tứ niệm xứ
- 38. Tứ chánh cần
- 39. Ngũ căn – Ngũ lực
- 40. Thất Bồ-đề
- 41. Bát chánh đạo
- 42. Bồ-tát Di Lặc
- 43. Tổ Bồ Đề Đạt Ma
- 44. Thiền
- 45. Đức Phật A Di Đà
- 46. Đại Thế Chí Bồ Tát
- 47. Quán Thế Âm Bồ Tát
- 48. Pháp tu Tịnh độ
- 49. Ăn chay
- 50. Quan Thánh
- 51. Nho Giáo
- 52. Đạo giáo
Lê Sỹ Minh Tùng
Vì
cảnh giới mà chúng ta thấy đều là vô ngã cho nên tâm thức
cũng vô ngã theo. Một khi tâm thức biến chuyển không ngừng
như thế thì vọng tưởng sẽ phát sinh liên tục cho nên tham
dục hành hạ và đọa đày chúng ta từng giây từng phút.
Chúng ta cũng biết là thân, khẩu, ý là nguồn gốc tác
sinh ra căn nghiệp. Cứ một tư tưởng xấu vừa mới thoáng
qua trong đầu óc của chúng ta, hay một lời nói làm người
khác đau buồn, hoặc là một hành động gây ra sự đau khổ
cho kẻ khác đều được xem là ác nghiệp. Mà đã là ác nghiệp
thì khó lòng mà thoát ra khỏi lục đạo luân hồi.
Biết để mà đề phòng là người khôn ngoan và dùng trí tuệ
để trấn áp những si mê là người tu Phật. Vì thế ý nghĩa
của Tứ chánh Cần cũng không ngoài mục đích khuyến khích
chúng sinh dùng trí tuệ để ngăn ngừa tội ác cũng như sự
phát sinh của nó và sau cùng tích cực cố gắng làm việc
thiện. Tứ chánh cần được chia làm bốn phần là:
§ Tinh tấn ngăn ngừa những tội ác chưa phát sinh.
§ Tinh tấn diệt trừ những tội ác đã phát sinh.
§ Tinh tấn phát triển những điều lành chưa phát sinh.
§ Tinh tấn tiếp tục phát triển những điều lành đã phát sinh.
Vậy
làm thế nào để ngăn ngừa những tội ác chưa phát sinh?
Khi
trong tâm mình có một mầm mống tội ác vừa chớm nở thỉ
chúng ta phải dùng trì giới để kìm hãm những tư tưởng
đen tối kia trước khi nó có cơ hội sinh sôi nẩy nở. Người
tu hành thì lúc nào cũng nhớ nằm lòng tất cả mọi trì giới
cũng như người lái xe phải thuộc lòng luật lệ giao thông
thì mới mong tránh được tai nạn.
Còn
những điều ác đã phát sinh thì sao?
Khi chúng ta chưa hiểu biết Phật pháp thì chúng ta đã tạo ra nhiều tội lỗi. Những tội lỗi nầy đã làm cho tâm của chúng ta càng ngày càng tăm tối lu mờ chẳng khác nào một tấm gương lâu ngày không chùi rửa. Nay chúng ta đã biết Phật pháp và thấy cái nguy hại của điều ác thì chúng ta phải quyết tâm dứt trừ. Vì đạo Phật đã chỉ cho chúng ta thấy rõ ràng là tạo ác nghiệp thì sẽ sa vào ác đạo luân hồi. Chỉ có thiện nghiệp thì mới đưa chúng ta ra khỏi vòng luân hồi sanh tử. Cái đà của tội lỗi cũng giống như là cái đà của một chiếc xe đang chạy xuống dốc. Càng xuống dốc thì xe càng chạy nhanh. Con người thì cũng vậy, càng tạo tội lỗi thì tội lỗi càng lớn và khiếp đảm hơn. Chúng ta phải sáng suốt dùng trì giới để tự nhắc nhở cho chính mình luôn luôn phải làm lành tránh dữ.
Bây
giờ làm thế nào để phát triển những điều lành chưa phát
sinh?
Sống
trong thế gian chúng ta thấy có rất nhiều người gặp nhiều
may mắn. Những sự may mắn nầy mang đến cho họ sự giàu
sang phú quý. Nhưng tại sao họ lại có nhiều may mắn như
thế? Chẳng có gì khó hiểu cả, dựa theo luật Nhân quả
của nhà Phật thì con người có rộng tâm bố thí, tạo nhiều
phước đức thì khi qua đến kiếp sau những phước đức
nầy sẽ mang lại cho họ những sáng suốt làm cho họ phát
tài mà trở thành giàu có. Còn nếu chúng ta bủn xỉn thì
không có phước đức thì dĩ nhiên qua đến kiếp nầy tâm
trí lu mờ, tính gì trật nấy làm cho chúng ta nghèo. Vì thế
muốn tương lai tươi sáng thì hiện tại phải tạo nhiều
phước đức tức là thiện nhiệp.
Muốn
tạo nhiều thiện nghiệp thì chúng ta phải đối đãi
tử tế với tất cả mọi người. Phải giúp đở người
nghèo khổ, hoạn nạn cũng như khi thấy việc cần làm thì
phải làm ngay chớ không nên suy qua tính lại. Đó là chúng
ta đã lấy lòng từ bi mà đối đãi với chúng sinh vậy.
Sau
cùng, chúng ta phải hăng hái để phát triển những điều
lành bởi vì đây là cơ hội để chúng ta gieo thêm nhiều
cái nhân thiện cho cuộc đời của chúng ta.
Vậy
còn những điều lành đã phát sinh thì làm sao?
Một
khi điều lành đã được phát sinh ra hành động thì đây
chính là thiện nghiệp. Đó là việc làm tốt. Nhưng nếu dừng
lại ở đây thì thân, khẩu, ý của chúng ta có cơ hội
xoay chúng ta từ thiện sang bất thiện thì chúng ta lại dễ
dàng sa vào bẩy của tội ác triền miên. Để tránh tình trạng
nầy thì lúc nào tâm của chúng ta cũng nghĩ về thiện, cố
gắng gạt bỏ mọi ám chướng và phát huy từ việc thiện
này đến việc thiện khác.
Sau
hết, nếu suốt đời chúng ta theo đúng bốn điều nói trên
là ngăn ngừa không cho những điều ác phát sinh, diệt trừ
những điều ác đã phát sinh, cố gắng thực hiện những
điều lành vừa phát sinh trong tâm của chúng ta và sau cùng
là tiếp tục thực hiện nhiều hơn những điều lành thì
thiện quả sẽ giúp chúng ta thoát khỏi cảnh luân hồi sanh
tử và đạt được địa vị Thánh hiền.
Tứ Như Ý Túc
Sau
khi đã nhận rõ được chân tướng của cuộc đời trong phần
Tứ niệm xứ và quyết tâm bỏ ác theo thiện trong phần Tứ
chánh cần, con người nếu muốn tiến xa trên đường đạo
với một chí nguyện, một năng lực tinh thần vững chắc
cho đến khi được toại nguyện thì tứ như ý túc sẽ giúp
chúng ta đạt được điều mong ước nầy.
Tứ
là bốn, như ý là được toại nguyện và túc là chân. Vậy
tứ như ý túc là bốn phép làm nơi nương tựa cho các công
đức thiền định được thành tựu mỹ mãn như ý muốn của
mình. Đó là:
¨ Dục như ý túc
¨ Tinh tấn như ý túc
¨ Nhất tâm như ý túc
¨ Quán như ý túc
1) Dục như ý túc: Dục là mong muốn và mong muốn một cách tha thiết cho đến khi mãn nguyện mới thôi. Nhưng mong muốn cái gì? Tại sao đã tu Phật mà lại còn “dục” như thế?
Trong cuộc sống có những thư mong muốn thỏa mãn những thú
tính, những tham vọng thì đây là những mong muốn tội lỗi,
nên tranh xa. Có những thứ mong muốn trong lành như mong muốn
sống một cuộc đời đẹp đẽ, thah cao. Mong muốn được
giai thoát ra khỏi vòng sinh tử luân hồi thi đây là nhữn
mong muốn chánh đáng, hợp lý và đáng khuyến khích. Ở đây
người tu Phật mong muốn được thành đạt các pháp thiền
định để tiến về hướng giải thoát giác ngộ. Nhiều qua
niệm sai lầm về diệt dục của Phật giáo.
Họ lý luận diệt dục là phải diệt tất cả những tham
vọng và dĩ nhiên cũng diệt luôn cả những đòi hỏi của
cuộc sống. Thật ra Phật giáo chỉ chủ trương diệt dục
theo con đường trung đạo tức là diệt những dục vọng,
diệt những phần ham muốn xấu xa đê hèn làm cho con người
bị đọa vào tam ác đạo. Chớ đạo Phật đâu có chủ trương
diệt luôn cả những chí nguyện, những mong ước, những đức
tính tốt đẹp của con người. Vì thế người thế gian ham
thích những vật dục mạnh mẽ như thế nào thì người tu
Phật cũng mong muốn thành tựu những pháp thiền định Xa-Ma-Tha
để tâm được thanh tịnh mà hướng về giải thoát giác
ngộ.
2) Tinh tấn như ý túc: Tinh tấn là dũng mãnh, chuyên nhất vào
thiền định, đừng để tâm tán loạn. Đây là thể hiện
những nghị lực liên tục không bao giờ gián đoạn. Vì thế
trong kinh Di Giáo Đức Phật có dạy rằng:
“Như người kéo cây lấy lửa, cây chưa nóng đã thôi, tuy muốn được lửa nhưng khó thể được…”
Vậy nếu chúng sinh muốn tiến xa trên con đường tu đạo
thì tinh tấn là đều kiện không thể thiếu được.
3) Nhất tâm như ý túc: Nhất tâm là tâm chuyên nhất vào định
cảnh, không cho tán loạn. Thí dụ một con sông Mê Kông cho
dù có lớn, nhưng khi ra biển chia thành chín cửa thì chắc
chắn sức chảy của nước sẽ bị yếu dần. Ngược lại,
một dòng suối nhỏ nếu chỉ chảy một đường thì cũng
đủ sức xoi thủng đá. Người tu Phật giữ nước trí tuệ
thì cũng thế, phải khéo tu thiền định chớ để cho tâm
tán loạn.
4) Quán như ý túc: Quán là quan sát những pháp mình đang tu.
Khi tâm đã định thì sẽ có thể quan sát để thấy thật
rõ ràng chân lý của tất cả các pháp trong vũ trụ nầy.