Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

33. Tập đế

23 Tháng Hai 201100:00(Xem: 8707)
33. Tập đế

PHÁ MÊ KHAI NGỘ
 Lê Sỹ Minh Tùng

33. Tập đế
(Sameda Dukkha) (Arising of Suffering)

 Trong phần Khổ đế, Đức Phật đã cho chúng ta thấy tất cả mọi nỗi khổ trên cõi đời này. Nhưng khác hẳn với triết lý Khổng Mạnh là: "Hữu thân hữu khổ, vô khổ bất thành thân”. Giáo lý của Đức Phật không dạy cho con người muốn trở thành người hữu dụng thì phải chấp nhận chịu khổ và rèn luyện con người trong cảnh khổ để đạt một tương lai sáng rạng. Ở đây Đức Phật muốn cho chúng ta biết đâu là nỗi khổ dầu ở giai cấp nào vẫn lãnh chịu cái khổ như thường. Nghèo thì có nỗi khổ của nghèo, còn giàu sang thì có cái nhức đầu của kẻ phú quý. 

 Cái khổ nó gắn liến với cuộc sống của chúng ta từ lúc còn trong bụng mẹ cho đến khi chúng ta lìa bỏ cõi đời này. Nhưng không phải khi thấy đời toàn là khổ ải thì chúng ta than trời trách đất, nhậu nhẹt say sưa để quên đi tất cả những nỗi khổ bởi vì càng say thì càng khổ không ích lợi gì. Muốn hết khổ, thì phải tận diệt nó. Nhưng làm sao mà có thể diệt trừ chúng nếu chúng ta không hiểu rõ nguyên nhân nào sinh ra cái khổ. Đây chính là giai đoạn thứ hai mà Đức Phật đã chỉ dạy cho chúng sinh. Vậy Tập đế là bước thứ nhì trong bộ Tứ Diệu Đế cốt tìm nguyên nhân phát sinh ra sự khổ đau.

 Vậy thế nào là Tập đế?

 Tập: là chứa và dồn thêm mỗi ngày một nhiều hơn còn Đế là sự thật vững chắc.

 Như thế, Tập đếsự thật vững chắc nói về nguyên nhân của những nỗi khổ đã tích lũy lâu đời, lâu kiếp trong mọi chúng sinh và đây chính là cội rễ của sanh tử luân hồi.

 Khi Lục căn tiếp xúc với Lục trần thì tâm chúng ta phát sinh ra vọng tưởng. Chính những vọng tưởng này đã gieo vào tâm ta không biết bao nhiêu là phiền não. Đức Phật đã đem tất cả những phiền não này gom lại thành 10 cái chính: tham, sân, si, mạn, nghi, thân kiến, biến kiến, kiến thủ, giới cấm thủtà kiến.

1) Tham: có nghĩa là tham lam. Tham là một động lực vô cùng quan trọng bởi vì chính nó là nguyên nhân mà ta phải làm đủ mọi cách để thỏa mãn sự ưa thích của nó. Những thứ như tiền tài, danh lợi, vật chất cao sang, cao lương mỹ vị.. là những cội nguồn phát sinh ra lòng tham. Một khi lòng tham đã nổi dậy, thì con người bất chấp mọi thủ đoạn, bày ra trăm mưu ngàn kế để thỏa mãn những dục vọng đó. Mà đã nói tới lòng tham, thì không thể bỏ sót một điều nữa là lòng tham thì vô đáy, thâu góp bao nhiêu cũng không vừa. Có một thì muốn mười, có mười thì muốn trăm. Tham cho mình chưa đủ, còn tham cho cả thân bằng quyến thuộc. Cũng vì tham, mà gia đạo bất hòa và cũng vì tham, mà nhân loại giết hại lẫn nhau. Nhiều người khi thấy lợi nhỏ thì không tham, nhưng khi thấy lợi lớn thì cũng tối mắt như thường.

2) Sân: có nghĩa là nóng giận. Khi dục vọng của con người phát sinh thì lòng tham nổi lên, mà nếu chúng ta không thỏa mãn được những tham vọng này thì lòng sân sẽ nổi dậy. Một khi sân đã nổi lên, thì chúng ta trở thành điên cuồng, nói năng hung dữ, mặt mày bừng bừng sát khí. Bởi vì sân làm cho con người mất đi nhân tính nên họ có thể làm bất cứ việc gì trong những giây phút đó. Chính cũng vì cái sân này mà đã làm cho bao người tán gia bại sản, thân danh bại liệt, vào tù ra khám, thân xác tật nguyền, đau đớn. Vì thấy sự nguy hại của nó, mà kinh Hoa Nghiêm nói rằng: ”Nhất niệm sanh tâm khởi, bách vạn chướng môn khai”, có nghĩa là một ý niệm sân hận nổi lên thì cũng như là mở ra trăm ngàn cái nghiệp chướng. Còn đối với người tu Phật, thì cái sân còn tai hại biết bao bởi thế kinh Phật còn chép thêm:”Nhất tinh chi hỏa, năng thiêu vạn khoảnh công đức chi sơn”, tạm dịch là một đóm lửa giận, có thể đốt hết muôn mẫu rừng công đức.

3) Si: có nghĩa là si mê, mờ ám. Si chẳng khác nào như là một đám mây đen che lấp lên trên đỉnh trí tuệ của con người. Nếu trí tuệ không còn minh mẫn thì ta đâu còn phân biệt giữa tốt và xấu, chánh với tà và đây là nguyên nhân chính để chúng ta tạo ra lắm điều ác nghiệp. Cũng chính vì si mê mà lòng tham trở thành không đáy. Nhưng nếu trí tuệ của chúng ta còn sáng suốt để thấy cái tai hại của lòng tham thì chúng ta có thể kìm hảm cái tham đó được chứ đâu có nhắm mắt mà làm nô lệ cho nó và để cho nó tự do hoành hành thao túng. Cũng vì si mà lửa sân có cơ hội bừng cháy. Nếu chúng ta còn sáng suốt, thì khi nào chúng ta lại để cho sân tha hồ tung hoành như vậy! Bởi sự quan trọng của chữ si, nên kinh Phật cũng dạy thêm: ”Bất uy tham sân khởi, duy khung tự giác trì” có nghĩa là không sợ tham và sân, mà chỉ sợ si mê. Thật vậy, bởi vì một khi tham, sân vừa nổi lên mà chúng ta có đủ trí tuệ sáng suốt để ngăn chận chúng kịp thời thì tham, sân cũng chẳng làm gì được. Giống như khi có ánh sáng mặt trời bừng lên thì bóng tối tất nhiên phải tự tan biến.

Vì sự tai hại trầm trọng của tham, sân, si, cho nên Đức Phật đã gọi chúng là “tam độc”. Chính cái tam độc này cũng còn được gọi là các căn bản bất thiện bởi vì nó là cội ngưồn để sinh ra ác nghiệp và đưa đẩy con người lún sâu vào sinh tử luân hồi.

4) Mạn: có nghĩa là ngạo mạn. Khi một người không có đức độ, thuộc hạng tham danh háo sắc, thường phát sinh trong tư tưởng của họ những dục tính như tự nâng mình lên cao và hạ người khác xuống. Họ tự cho mình là quan trọng mà khinh rẽ mọi người. Lúc nào họ cũng tự cao, tự đại, dương dương tự đắc, mục hạ vô nhân, hổn láo với người trên và khinh mạc kẻ dưới.

Vì mang bản tính ngạo mạn như thế nên không ai nói mà họ nghe cho dù là lời hay lẽ thiệt. Do đó họ đã làm nhiều điều sai quấy tạo ra ác nghiệpdĩ nhiêntrầm luân trong lục đạo luân hồi.

5) Nghi: có nghĩa là nghi ngờ, không có lòng tin. Những người có lòng nghi ngờ thì khó mà thành công được. Bởi vì từ việc nhỏ đến việc lớn, họ lúc nào cũng không tin tưởng ai cả. Mà một khi đã không tin tưởng, thì không nhất tâm làm việc và như thế làm sao tạo kết quả tốt được. Những người có lòng nghi hoặc là loại người thiếu chân thật và không áp dụng trí tuệ một cách sáng suốt để phân biệt ai là chánh, ai là tà, hoặc đâu là tốt, đâu là xấu. Với tính nghi kỵ này sẽ làm cho người chung quanh của ta bực bội, không thành thật đối đãi với ta và dĩ nhiên tự ta chuốc lấy thêm đau khổ.

6) Thân kiến: nhìn nhận cái thân tứ đạitrường tồn bất biến. Vì không thông hiểu luật vô thường, vô ngã nên chúng ta nghĩ rằng trong ta có một cái Ta riêng biệt, chắc chắn và không biến đổi. Bởi vì nó là cái Ta riêng của chính ta, không dính dấp tới người khác nên chúng ta tìm mọi cách để thỏa mãn bất cứ những gì mà cái Ta thích. Chúng ta xây nhà cao cho cái Ta ở, sắm xe đẹp cho cái Ta hưởng thụ, mua món ngon vật lạ cho cái Ta dùng, tranh công dành chức cho cái Ta hãnh diện. Do sự quý trọngcung phụng cho cái Ta như thế mà chúng ta đã tạo ra không biết bao nhiêu điều tội lỗi, chà đạp lên bao nhiêu cái Ta khác và làm cho họ đau khổ cũng vì cái Ta của ta.

7) Biện kiến: có nghĩa là lý luận một chiều. Đây là nói về những người có lý luận độc đoán. Họ nghĩ rằng lý luận của họ là đúng nhất bất chấp là lý luận ấy thực sự có đúng hay không. Có hai loại biện kiến thường thấy là:

a) Thường kiến: là họ lý luận rằng khi chết rồi, cái Ta vẫn còn tồn tại mãi mãi. Người chết sẽ sanh ra người, còn súc vật chết sẽ trở lại làm súc vậtthánh nhân chết sẽ trở lại làm thánh nhân. Vì tin tưởng như vậy, nên đối với họ, có tu hay không tu cũng như nhau. Họ không sợ tội ác, nên chẳng cần làm thiện. 

b) Đoạn kiến: đối với nhóm nầy, thì họ nghĩ rằng chết là hết. Một khi chúng ta tắt thở, nhắm mắt xuôi tay thì không còn gì tồn tại nữa. Lúc đó tội cũng không mà phước cũng chẳng còn. Họ luôn luôn tâm niệm rằng:”Tu nhơn đức già đời cũng chết, hung hăng bạo ngược tận số cũng chẳng còn”. Vì tin tưởng như thế, nên luật nhân quả luân hồi đối với họ không còn ý nghĩa gì cả thành thử họ mặc tình làm điều tội lỗi.

8) Kiến thủ: có nghĩa là cố chấp. Vì chúng taphàm phu nên trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta có những hành vi sai quấy và có những ý kiến sai lầm. Nhưng vì cố chấp, chúng ta không dùng trí tuệ sáng suốt để phân minh, mà cứ bảo thủ hành vi, ý kiến của mình. Chúng ta tự cho mình là hay, là giỏi và những người này dễ bị đụng chạm tự ái. Cũng chính bởi tính bướng bỉnh cứng đầu này mà họ đã gây ra nhiều đau khổ.

9) Giới cấm thủ: có nghĩa là làm theo lời răn cấm của những tà giáo. Những giáo điều này đôi khi thật là vô lý, mê muội nhưng vẫn làm cho một số người lầm tưởng đó là con đường giải thoát cho họ. Chân lý của Đức Phật là phá mê khai ngộ. Nếu dựa vào chân lý này thì người tu sẽ phát sinh ra trí tuệtrí tuệ là những tia sáng mặt trời để đốt tan những bóng đen mê muội ngõ hầu giúp chúng ta phân biệt đâu là chính, đâu là tà.

10)Tà kiến: có nghĩa là nghe theo tà giáo để làm những việc không chánh đángtrái với luật nhân quả. Những người có tà kiến thì thường tin vào mê tín dị đoan chẳng hạn như xin xăm, bói quẻ, coi sao, cúng hạn. Mê tín dị đoangiáo lý nhà Phật không thể nào đồng hóa nhau được. Tại sao? Phật giáo thì lúc nào cũng chủ trương là cuộc đời của chúng ta luôn luôn gắn liền với nghiệp cănnghiệp quả. Chúng ta là kết quả của căn nghiệp mà chúng ta đã tạo nên. Thành thử xin xăm, bói quẻ hay coi sao, cúng hạn cũng không thay đổi được nghiệp quảchúng ta đã tạo ra. 

 Thử ngẫm nghĩ như thế này: nếu những người bói quẻ, cúng sao có thể thay đổi được số mệnh cho họ thì chính họ đã có cuộc sống sung sướng giàu sang. Do đó họ phải ở nhà lo hưởng thụ chớ ngu gì phải đi ngồi đầu đường xó chợ để kiếm từng đồng, từng cắc. Chính họ mà còn không thể giúp cho họ được thì làm sao họ có thể giúp cho chúng ta? Nếu chúng ta tin vào họ, thì chúng ta chỉ phí thì giờ và làm cho tâm thêm mê muội cũng như làm giàu cho bọn lười biếng nói khoác mà thôi chứ không mang lại kết quả gì cả. Nếu chúng ta muốn cuộc sống hiện tại khá hơn, tương lai thêm tươi sáng, thì chỉ có một con đường duy nhất là tạo cho mình thật nhiều thiện nghiệp, luôn luôn phát tâm Bồ-đề và dĩ nhiên phải tránh xa ác nghiệp.

Tóm lại, trong mười món phiền não trên, thì tác dụng của nó có phần khác nhau. Có thứ thì yếu ớt, nông cạn, dễ dàng trừ khử và có thứ thì sanh cội, sanh rễ khó khăn khử trừ. Đức Phật đã chia tất cả 10 loại phiền não này ra thành hai loại: kiến hoặctư hoặc.

 1)Kiến hoặc: Kiến là sự thấy biết từ bên ngoài vì thế kiến hoặc là những cái sai lầm về mê lývọng chấp từ bên ngoài mà thấm vào trong tâm của chúng ta. Do đó một khi con người đã thấu suốt chân lý của Đức Phật thì những mê lầm nầy sẽ từ từ biến mất. 

 2)Tư hoặc: Tư là phần bên trong tức là tâm tư vì thế tư hoặc là những điên đảo mê lầm đã có sẵn trong tâm thức của con người. Đây là nói đến 4 loại phiền não thuộc loại nặng ký. Chúng nó có khả năng ăn sâu vào tận gốc rễ và rất khó tiêu trừ. Đó là Tham, Sân, Si, Mạn. Tham, Sân, Si, Mạn gắn liền với con người như hình với bóng. Hễ có con người là có nó và mình đi đâu thì nó theo đó. Chúng nó ăn sâu vào trong tiếm thức của chúng ta để sai khiến, đọa đày và bắt chúng ta phải thỏa mãn những dục tính, nhu cầu của nó. Càng nghe lời nó thì chúng ta càng sa vào vòng sanh tử luân hồi bởi những ác nghiệpchúng ta đã gây ra. Nhưng cổ nhân cũng có câu: ”Cao nhân tắc hữu cao nhân trị” cho nên dù nó có nguy hiểm như thế nào, nhưng nếu chúng ta trì công tu hành thì bốn món độc kia sẽ bị tiêt trừ.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 24030)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21755)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23328)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27518)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26583)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29340)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 20213)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 20943)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 29852)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 22151)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 24412)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29301)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 32178)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21094)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 21619)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28110)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 29224)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20637)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28316)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23666)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33217)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31871)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39661)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 19403)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26427)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24847)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21761)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 29159)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22582)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20481)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23559)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21250)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35364)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24565)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
(Xem: 31368)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26249)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 31266)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20300)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22990)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30103)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21620)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20303)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 20802)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 28826)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34772)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 22583)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21402)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 19369)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 29546)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35203)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28851)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 37942)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21353)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 27057)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27250)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24092)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20874)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34341)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22513)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25151)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant