Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

30. Kinh Kim Cang Bát Nhã

23 Tháng Hai 201100:00(Xem: 8783)
30. Kinh Kim Cang Bát Nhã

PHÁ MÊ KHAI NGỘ
 Lê Sỹ Minh Tùng

30. Kinh Kim Cang Bát Nhã

Kim Cang Bát Nhã Ba-La-Mật Kinh là Kinh nói về “Trí tuệ Phật” (Bát nhã), loại trí tuệ đã tạo thành viên mãn (Ba-La-Mật). Trí tuệ nầy có công năng đưa chúng ta từ bến bờ mê muội của chúng sanh sang bờ giác ngộ giải thoát của chư Phật.

 Sau hai mươi năm thuyết pháp về những Chân lý sinh diệt của thế gian, bây giờ Đức Thế Tôn bắt đầu thuyết về Bát nhã và Ngài đã dùng tới hai mươi hai năm để diễn giải về cái trí tuệ quý báu nầy. 

 Trí tuệ Phật (Bát Nhã) rất quý báu (như ngọc Kim Cương), vừa cứng rắn và cũng vừa sắc bén (như thép). Chính thứ trí tuệ nầy có khả năng phá tiêu núi vô minh vọng chấp và đốn tận gốc rừng phiền não nghiệp chướng, từ vô lượng kiếp đến nay, mà không bị hư tổn, giống như là viên Kim cương có thể cắt, chẻ các loại cứng như sắt, đá…. mà không bị hư hại.

 Điều đặc biệtTrí tuệ Bát Nhã, không phải do tu mới có, hay nhờ các duyên bên ngoài luyện tập mới thành. Mà nó có sẵn trong mỗi chúng sinh từ vô thỉ đến nay. Cho dù chúng ta hiện giờ đang ở địa vị phàm phu thì nó cũng không giảm, hay chúng ta chứng được quả Thánh thì nó cũng không tăng. Nó đã không bị các vô minh phiền não tàn phá, trái lại nó còn phá tan tất cả vô minh phiền não từ vô thỉ đến nay. Vì thế Phật mới dùng “ngọc Kim Cương” để thí dụ “Trí tuệ Bát Nhã” rất quý báu và sẵn có trong tất cả chúng ta, đó là Phật tánh sáng suốt.

 Kinh Kim Cương Bát Nhã mở đầu bằng câu chuyện:

 Tôi nghe như vầy: Một hôm, tại nước Xá Vệ, Phật và 1250 vị Đại Tỳ kheo, đều ở Tịnh xá Kỳ Hoàn, trong vườn của Thái tử Kỳ đàTrưởng giả Cấp Cô Độc.

 Sắp đến giờ ngọ trai, Phật và chúng Tăng đều đắp y, mang bình bát vào thành Xá Vệ, theo thứ lớp khuất thực.

 Khuất thực xong, Phật và chúng Tăng đồng về Tịnh xá để thọ trai. Sau khi thọ trai xong, Phật xếp y, cất bình bát và rửa chân, rồi trải tọa cụ, ngồi yên tịnh.

 Đây là những cử chỉ bình thường và rất đơn giản, nhưng đã tạo thành một hình ảnh tuyệt diệu, nói lên được tinh thần “giải thoát vô trụ”, để mở màn cho Phật nói Kinh Bát Nhã. Người mà ngộ được Kim Cang Bát Nhã rồi thì đối với các pháp và mọi việc đều thông suốt do đó những việc làm dù là bình thường hằng ngày đều là Phật pháp. Tâm bình thường đó cũng là Phật pháp cho đến đi, đứng, nằm, ngồi… cũng đều là Phật pháp. Trái lại, người chưa nhập được “Kim Cương Bát Nhã’ cho dù họ có luyện được thần thông biến hóa, có thể di sơn đảo hải đi nữa, cũng chỉ là yêu ma ngoại đạo mà thôi. Nói một cách khác, Kinh Kim Cương Bát Nhã xác nhận là trong mỗi người đều có đủ tất cả các pháp giới. Nếu chúng ta bền chí tu hành lâu dài, thì sẽ có ngày tự nhiên đốn ngộ. Trái lại, nếu chúng ta hướng ngoại mà tìm, vì nghĩ rằng Phật có thần thông biến hóa thì chúng ta cần phải luyện như thế mới phải là Phật thì chúng ta đã đi lầm đường lạc lối.

 Sở dĩ Phật nói Kinh Kim Cương Bát Nhã là do sự thưa thỉnh của Tôn giả Tu Bồ Đề với ba nội dung chính là: 

1) Phát bồ đề tâm: có nghĩa là phát tâm tu tập để thành tựu đạo quả vô thượng Bồ-đề. Phạn ngữ A-nậu-đa-la tam-miệu tam-Bồ-đềvô thượng chánh đẳng chánh giác. A-nậu-đa-la là vô thượng tức là không còn ai cao hơn, tam-miệu là chánh đẳng tức bình đẳng chân chính và tam-Bồ-đề là chánh giác tức là sự giác ngộ hoàn toàn chân chính.

2) Làm thế nào để hàng phục vọng tâm? Là chế phục tâm xấu. Làm sao có thể chế phục được tham-sân-si? Muốn chế ngự được những ô nhiễm nầy thì cần phải vun trồng giới, định, tuệ. Vì sự quan hệ giữa tham-sân-si và giới, định, tuệ thật hổ tương liên đới. Có nghĩa là có cái nầy thì cái kia phải mất và ngược lại. Thí dụ nếu chúng ta còn tham thì chắc chắn sẽ phá giới. Còn sân, còn nóng giận, còn buồn phiền thì tâm không bao giờ an định được. Còn ham muốn, còn thích cái nầy cái kia, còn chạy theo vật chất phù du thì tâm trí bị ngu si hắc ám tức là không có tỉnh thức, trí tuệ

3) Làm sao để có thể an trụ chơn tâm? Đối với người ngu si thì giới, định, tuệ sẽ biến thành tham-sân-si. Cũng như nước và băng thì cũng thế. Băng chẳng khác nước, nước tức là băng và băng tức là nước. Nói sâu xa hơn thì phiền não tức Bồ-đề hay sanh tử tức Niết bàn. Người trí thì trong phiền não mà họ tìm thấy Bồ-đề và trong sanh tử họ có được Niết bàn. Còn kẻ vô minh thì lấy phiền não, sinh tử làm cứu cánh cho cuộc sống của đời mình. 

Muốn tâm được thanh tịnh để quay về sống với chân tâm, với Phật tánh, với trí tuệ sáng suốt của mình thì chúng sinh phải biết trồng căn lành, gieo giống tốt. Như thế chúng sinh sẽ không còn bốn tướng:

Ngã tướng: là thấy có Ta, một thực thể thật trong thế gian vũ trụ nầy.

Nhân tướng: là thấy có người. Vì thấy mình là thật nên dĩ nhiên cũng thấy người chung quanh ta là thật.

Chúng sinh tướng: thấy mình là thật, thấy người là thật thì sẽ thấy tất cả chúng sinh mọi loài là thật, là chắc chắn muôn đời.

Thọ giả tướng: Hễ thấy mình là thật, người là thật, chúng sinh là thật thì không muốn nó bị mất, bị hư hoại theo luật vô thường. Niềm luyến tiếc và hy vọng sống mãi mãi nầy chính là thọ giả

Nếu trong tâm chúng sinh còn có tướng tức là hãy còn chấp có mình, có người, có chúng sinh, có thọ giả thì không thể giải thoát được vì không thể chân chánh buông xả. Đây là một lối giải thích thân nầy là giả, không thật. Bởi vì nếu chấp thân mình là thật thì từ đây lòng tham-sân-si sẽ tha hồ phát tác mà tạo ra nghiệp. Biết thân mình là giả thì con người có thể kiềm chế lòng tham, bớt nóng giận, buồn phiền và bỏ bớt sự ham muốn của thế gian. Có buông xả thì tâm mới thanh tịnh. Có càng nhiều thì lo càng lớn và dĩ nhiên đau khổ, buồn phiền cũng vì thế mà tăng theo. Cho nên cổ nhân cũng có câu: ”Trọc phú đa ưu” là vậy. 

Phật dạy rằng các vị Bồ Tát khi nhập thế độ sanh làm các Phật sự thì họ phải luôn luôn dùng trí tuệ Bát Nhã để phá trừ các chấp ngã, chấp pháp, không còn thấy bốn tướng, thì phiền não vọng chấp không sanh. Đó là phương pháp “hàng phục vọng tâm”. Nếu Bồ tát còn vô minh phiền não vọng chấp nổi lên thì không phải là Bồ tát, vì chưa nhập được trí tuệ Bát nhã.

 Nếu Bồ tát làm các Phật sự, như hóa độ chúng sanh, hay bố thí mà tâm còn chấp ngã chấp pháp, thì tâm của họ còn phiền não ô nhiễm. Và nếu đem tâm phiền não ô nhiễm nầy làm các Phật sự (phước thiện) thì các Phật sự đó cũng biến thành ô nhiễm. Trái lại, khi bố thí, nếu Bố tát dùng trí tuệ Bát nhã, phá trừ chấp ngã chấp pháp, có nghĩa là không chấp mình là người bố thí, ban ơn (chấp ngã), người đó là kẻ chịu ơn (chấp nhơn), đây là vật bố thí (chấp pháp), thì các phiền não ô nhiễm không sanh, tâm sẽ được thanh tịnh. Tâm thanh tịnh tức là tâm Phật hay chơn tâm. Nếu đem tâm thanh tịnhbố thí thì chúng ta sẽ được phước vô lậu thanh tịnh, rộng lớn như hư không, không cùng tận. Cũng như một giọt nước tuy nhỏ (bố thí ít), nhưng được hòa vào biển cả (tâm tịnh) thì được biến khắp cả biển, rộng rãi bao la. Vì thế Đức Phật lại dạy rằng:”Bồ thí vô tướngđộ sanh vô ngã thì tâm sẽ thanh tịnh”

 Nói tóm lại, nếu Bồ tát độ sanh hay làm các Phật sự, mà không khởi vọng tâm, chấp ngã chấp pháp thì các phiền não tham, sân, si không sanh. Phiền não không sanh thì không tạo nghiệp. Mà nghiệp không tạo thì không còn sanh tử luân hồi. Vì thế, Phật dạy: ”Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” tức là Đừng để tâm trụ chấp, dính mắc một nơi nào”. Đó là phương pháp “hàng phục vọng tâm” và “an trụ chơn tâm” vậy.

Ngay cả pháp giáo do Đức Phật dạy, như Giới Định Tuệ, như Tứ Diệu Đế, như Lục Độ Bồ tát giới (nhẫn nhục, trì giới, bố thí, tinh tấn, thiền định, trí tuệ) là những giáo pháp giúp chúng ta để đi đến đời sống giải thoátgiác ngộ mà chính những giáo pháp nầy tự nó không phải là giải thoát, giác ngộ. Chất liệu giải thoát giác ngộNhư Lai, là Minh hành túc và những chất liệu nầy do sự thực hành pháp giáo ấy của Thế Tônthành tựu. Nói một cách khác, Giác ngộ hoàn toàn mới chính là giác ngộ còn tất cả kinh điển đều như ngón tay chỉ mặt trăng. Người xem phải nương theo ngón tay mới thấy được mặt trăng. Nhưng nếu chấp ngón tay (chỉ xem ngón tay) thì không bao giờ thấy được mặt trăng. Cũng như chiếc bè đưa người sang sông, khi sang sông rồi thì không nên mắc kẹt ở nơi chiếc bè, mà hãy buông bỏ chiếc bè để bước lên bờ giác ngộ, tức là không cần kinh điển hay giáo pháp nữa. Không mắc kẹt ở chiếc bè tức là không mắc kẹt ở nơi pháp giáo

Vì thế giáo pháp chỉ là ngón tay, là chiếc bè chớ không phải là ánh sáng huyền diệu của mặt trăng, là Chân lý. Con người nương theo giáo pháp mà thấy Chân lý chớ đừng lầm tưởng giáo phápChân lý

Đức Phật nói thêm:

”Hãy biết những lời thuyết pháp của Ta ví như chiếc bè. Chánh pháp (Phật pháp) mà còn buông bỏ (không nên chấp) huống gì là không phải là pháp (phi pháp)”.

Ngày nay con người vì quá chấp vào hình thức bề ngoài tức là chấp vào phương tiện mà quên đi cứu cánhgiải thoát giác ngộ. Cứ ôm kinh điển cũng như ôm cứng chiếc bè thì làm sao lên bờ giải thoát được. Vì thế Phật dạy rằng:

“Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng. Nhược kiến chư tướng, phi tướng tức kiến Như Lai”.

Tức là tất cả mọi vật thể trên thế gian nầy từ động vật, thực vật, hay khoáng vật mà ngũ quan của con người có thể nhận biết được đều là giả tướng, là hư vọng, là phù du, là hương khói, là không thật. Chỉ khi nào thấy được thật tướng của nó là vô tướng thì chúng sinh mới thấy được Chân lý, thấy được Như Lai.

Làm sao thấy được vô tướng của vạn pháp?

Tất cả vạn pháp trong thế gian hay trong vũ trụ nầy không thể tự nó có được mà phải cần trợ duyên mới thành. Cái thân chúng ta là do đất, nước, gió, lửa, không giantâm thức tạo thành. Cái nhà là do gạch, ngói, xi măng, công thợ… mà có. Chén cơm là do hạt giống, đất, nước, ánh sáng mặt trời, công phu người nông phu… tạo nên. Cây muốn sống thì phải có đất, nước… Thế thì không có vật gì mà tự nó lớn lên và tồn tại mà không cần trợ duyên cả. Nếu đã cần trợ duyên thì chính nó không có chủ thể, không có tự tánh tức là vô ngã có nghĩa là Không. Vì thế tuy bề ngoài hình tướng của muôn sinh vạn vật có khác nhau, có lớn có nhỏ, có nặng có nhẹ, có xanh có đỏ, có cao có thấp nhưng thực chất tức là bản thể bên trong vẫn như nhau. Đó là chân không, không hình, không tướng, không sanh, không diệt, không dơ, không sạch. Thì đây mới chính là vô tướng của tất cả vạn pháp vậy. Khi con người còn tùy thuộc vào hình tướng bề ngoài như thấy có nhà cao cửa rộng, xe sang mặc đẹp, danh vọng cao sang thì còn thấy có sự sinh diệt nên còn dính với phiền não khổ đau. Nếu bây giờ không quan trọng những hình tướng bên ngoài tức là tâm không còn dính mắc thì tâm từ từ thanh tịnh để giúp chúng sinh quay về sống với cái trí tuệ sáng suốt hằng có trong ta tức là trí tuệ bát nhã ba-la-mật thì cuộc đời sẽ vô cùng an vui tự tại

 Nếu Như Lai có nói Pháp, tất nhiên phải có chúng sanh nghe pháp. Nếu còn có kẻ nói người nghe, tức nhiên còn ngã, nhơn, bỉ, thử. Mà nếu còn ngã, nhơn thì không phải là thuyết Phật pháp. Bởi thế, mặc dù Đức Phật đã thuyết pháp trong 49 năm, mà rốt cuộc Ngài nói:”Ta không nói một chữ”. Điểm nầy Đức Lão Tử cũng tương đồng, Ngài nói:”Cái “đạo” mà có thể nói được thì không phải thật là đạo. Cái “tên” mà có thể kêu được thì không phải thật là tên”.

 Một hôm, ông Tu Bồ Đề ngồi yên lặng dưới gốc cây. Trời Đế Thích rưới hoa cúng dường

Ông Tu Bồ Đề hỏi:

-Ai rãi hoa đây?

Trời Đế Thích thưa:

-Con là trời Đế Thích 

-Vì lẽ gì ông tới đây rãi hoa cúng dường?

-Vì tôn giả nói Bát nhã hay quá nên con mới đến cúng dường.

-Từ hồi nào tới giờ tôi chưa từng nói một câu, sao ông lại nói tôi thuyết Bát nhã?

-Tôn giả không nói, tôi không nghe . Không nói, không nghe mới là Bát nhã chân chính.

Trong việc tu hành, chúng ta cũng phải dùng trí tuệ Bát Nhã để phá trừ cái chấp. Có nghĩa là tu mà không chấp mình tu , thế mới thật là tu. Chứng quả, mà không chấp mình chứng quả, thế mới thật là chứng quả. Nếu người tu chứng, đúng theo tinh thần của “Kim Cang Bát Nhã”, có nghĩa là không còn các vọng chấp về ngã và pháp hay bốn tướng, thì mới thật tu và thật chứng.

 Tâm Bồ Đềtâm Phật, do đó khi Bồ tát phát tâm Bồ đề, thì họ phải xa lìa tất cả các vô minh vọng chấp: Không có chấp ngã, chấp nhơn, chấp chúng sanh, thọ giả, không chấp 6 căn, 6 trần và 6 thức. Nói chung là không chấp ngã chấp pháp.

 Khi các vọng chấp hết rồi, thì tâm bồ đề, tánh Bát nhã hay Phật tánh hiện ra. Đó là “hàng phục vọng tâm và an trụ chơn tâm”. 

 Một hôm tôn giả Tu Bô-đề bạnh với Phật rằng:

 - Bạch Thế Tôn! Phật chứng vô thượng chánh đẳng chánh giác có phải là không có chứng đắc gì cả ư?

 Phật dạy rằng:

 - Đúng thế! đúng thế! Tu Bồ-đề! Ta đối với vô thượng chánh đẳng chánh giác, cho đến một chút pháp cũng không chứng đắc, ấy gọi là vô thượng chánh đẳng chánh giác.

 Nếu muốn biết có đắc hay không đắc thì trước hết phải biết rằng mình có mất hay không mất. Nếu nói rằng pháp vô thượng chánh đẳng chánh giác là một thứ đã từng mất đi tức là thất thì nay mới có thể nói là tìm kiếm lại được tức là đắc. Thật sự chúng ta đâu có mất mát gì bởi vì pháp vô thượng chánh đẳng chánh giác chính là “bổn tính cố hữu” hay “bản lai diện mục” có sẳn trong chúng ta. Chúng ta không thấy, biết nó là vì bị màng vô minh dày đặc che lấp. Nếu xóa tan được màng vô minh hắc ám ấy thì ánh sáng huyền diệu của chân lý sẽ hiển bày tức là có được vô thượng chánh đẳng chánh giác. Cái trí Bồ-đề nầy lúc nào cũng có sẳn trong ta chứ không phải do bên ngoài đưa vào. 

 Thêm nữa, Đức Phật nói Ngài không chứng đắc chi cả mà thế gian đều tôn trọng Ngài là vì Như Lai không có tướng ngã, không có tướng nhơn, không có tướng chúng sinh và không có tướng thọ giả. Như Lai nhìn vạn pháp đều bình đẳng không thương, không ghét, không giận không hờn, không thiên không vị. Và đặc biệtNhư Lai luôn sống trong thiện pháp chớ không lọt vào quỷ đạo của ác pháp cho nên người đời gọi Như Lai chứng quả Vô thượng Bồ-đề chớ thật ra Như Lai đâu có chứng đắc gì đâu. Nhưng Như Lai nói không chứng đắc mà thật ra Như Lai có chứng đắc! Cái chứng đắc nầy là vô thực và vô hư tức là không phải thật và cũng không phải là không. Tại sao không mà là thật? Bởi vì cái mà Như Lai chúng đắc thì không có hình tướng, không có màu sắc, không có kích thước, không có văn tự ngôn ngữ để diễn tả. Thế thì cái mà Như Lai chứng đắckhông thật có. Nhưng nếu không thật thì phải là hư? Vậy mà cái chứng đắc của Như Lai lại là vô hư! Tại sao? Bởi vì Như Lai có đầy đủ trí tuệ để nhận thức chân lý hoàn toàn đúng. Đúng theo tự tánh Bồ-đề và tự tánh thanh tịnh Niết bàn của tất cả mọi sự vật hiện tượng. Đúng theo thật tánh của con người, đúng theo Pháp tánh của vạn pháp cho nên Như Lai không bao giờ có vô minh phiền não và tâm luôn thường trụ Niết bàn. Thế thì quả chứng đắc chính là vô hư tức là không phải là không có. Vì thế mà tâm kinh cũng viết: ”Sắc tức là không và Không tức là Sắc” nghĩa là Có tức là Không và Không cũng chính là Có vậy. 

 Ngày nay khi vào chùa gặp các vị Tăng thì làm sao chúng ta biết vị Tăng nào chứng đắc và vị nào chưa chứng đắc?

 Theo Phật giáo thì chứng đắc là vô thực bởi vì đâu có ai cấp bằng hay chứng chỉ chứng đắc cho ai đâu. Các danh xưng như Thượng tọa, Hòa thượng chỉ là những giả danh dùng để gọi chớ nó đâu có phản ảnh đúng con người thật hay bản tâm của họ được. Vì tu hành là vô cầu vô sở đắc tức là ngay cả chứng đắc cũng không mong cầu thì Thượng tọa, Hòa thượng có xá gì. Nhưng hư vô thì nó sẽ phản ảnh tướng mạo uy nghi đạo đức, tư tưởng chân chính, lời nói hòa nhã và hành động đúng với chân lý. Họ sẽ không còn tánh tham tật đố, không còn tập khí ngã mạndĩ nhiên làm việc vì lợi ích cho chúng sinh chớ không mong cầu lợi ích cho riêng mình. Khi quý vị thấy được vị Tăng nào như vậy thì đây chính là người đã chứng đạo. Nên nhớ có vô hư mới thành vô thực được.

 Sau cùng Phật dạy thêm: 
 

“Này Tu Bồ Đề! Nếu có người nói rằng: Như Lai hoặc là có đến, có đi, có nằm, có ngồi thì họ không hiểu được ý nghĩa của Như Lai. Tại sao? Bởi vì, Như Lai không đến từ đâu và cũng không đi về đâu, nên mới gọi là Như Lai!”.
 

 Như Lai không còn đi đâu, nghĩa là Như Lai vốn là tịch nhiên, các phiền nãovô minh ở trong tâm thức hoàn toàn không còn sinh khởi. Như Lai không còn về đâu, nghĩa là tự tánh giác ngộ của Như Lainghiễm nhiên thường tại không bao giờ bị hủy diệt.
 

 Mọi tướng đều là tướng của vọng tưởng. Chư Phật đã buông xã hết thảy vọng tưởng nơi tự tâm, nên đi, đứng, nằm, ngồi, nói, cười, im lặng, hành xử của Thế Tôn là từ nơi thể tịch diệt tướng mà biễu hiện và từ nơi thể tướng tịch diệt nầy mà chư Phật giáo hóa độ sanh đem lại lợi ích cho tất cả muôn loài. Pháp thân Phật là vô tại vô bất tại tức là chẳng ở mà chẳng không phải ở bởi vì Pháp thân thì trùm khắp mọi nơi. Nếu đã trùm khắp hết tất cả mọi nơi thì làm sao có thể nói là Phật đến hay là Phật đi? Nếu đến thì đến từ đâu và đi thì đi về chỗ nào? Do đó nếu chúng sinh thấu hiểu Phật pháp thì tất cả đâu đâu cũng là Pháp thân Phật, ở đâu cũng có Pháp thân Phật. Còn nếu không thấu hiểu Phật pháp thì cho dù có thấy Như Lai cũng không hề hay biết. Do đó, bất cứ ai tiếp xúc được thực tại vô tướng ở nơi các tướng là tiếp xúc và thấy được Như Lai hay là tiếp xúc và thấy được Chư Phật ngay trong cuộc sống nầy.
 

 Vì thế ngay cả Lục Tổ Huệ Năng cũng thốt lên năm cái không ngờ:
 

¨ Nào ngờ tâm mình vốn tự thanh tịnh.
¨ Nào ngờ tâm mình vốn không sanh diệt.
¨ Nào ngờ tâm mình vốn tự đầy đủ.
¨ Nào ngờ tâm mình vốn không dao động.
¨ Nào ngờ tâm mình hay sanh muôn pháp.
 

 Tóm lại, theo tinh thần Bát Nhã, phải lìa xa tất cả các vô minh, vọng chấp, thì chơn tâm hay Phật tính mới hiện. Đó mới thật là thấy Phật vậy.
 

 Do đó cổ nhân có bài tụng như sau:
 

 Phật tức tâm, tâm tức Phật
 Tâm Phật cả hai đều vọng vật
 Người ngộ vô tâm và vô Phật
 Liền chứng Chơn như Pháp thân Phật
 

Còn nếu phá được các vọng chấp ngã, chấp pháp :
 

 Mượn áo tràng bà để lạy bà
 Lễ rồi, áo trả lại cho bà
 Bóng trúc quét sân, trần chẳng động
 Vừng trăng xuyên biển, nước không xao.
 

Nghĩa là: 
 

Bồ-tát độ sanh hay làm các Phật sự mà không thấy việc mình làm, không thấy có mình độ và chúng sinh được độ. Cũng như bóng trúc quét bụi mà không thấy mình quét, ánh sáng của vừng trăng xuyên biển mà không thấy xuyên. Thế thì bụi trần không động và nước cũng dợn.
 

 Trước mưa chỉ thấy hoa cùng bướm
 Mưa rồi chẳng thấy bướm với hoa
 Hoa rụng bướm xanh qua khỏi vách
 Vậy ai đã hưởng thú xuân nầy.
 

Nghĩa là:

 Trước kia chưa dùng trí tuệ Bát nhã (chưa mưa) để phá trừ vô minh vọng chấp thì ngã (bướm) và pháp (hoa) còn lăng xăng trước mắt. Sau khi dùng trí tuệ Bát nhã mà phá trừ hết vô minh vọng chấp (mưa rồi) thì ngã và pháp đều hết (hoa rụng, bướm bay). Lúc ấy chơn tâm thanh tịnh hay Phật tánh hiện bày. Vậy ai hưởng được cảnh giới nầy.
 

 Sau cùng Ngài Xuyên Thiền sư có câu:
 

 Gió cuốn mây đen về biển cả
 Một vầng trăng sáng giữa trời không.
 

Nghĩa là:
 Khi các mây vô minh vọng chấp hết thì mặt trăng trí tuệ Bát Nhã hiện ra.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 24023)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21750)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23327)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27516)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26582)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29336)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 20213)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 20940)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 29847)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 22150)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 24408)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29294)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 32169)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21087)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 21610)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28110)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 29216)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20637)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28315)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23659)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33212)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31867)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39655)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 19393)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26420)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24845)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21761)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 29157)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22577)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20481)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23545)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21250)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35358)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24562)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
(Xem: 31360)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26239)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 31255)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20296)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22983)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30097)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21615)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20298)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 20797)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 28825)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34772)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 22580)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21401)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 19362)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 29546)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35193)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28851)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 37934)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21352)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 27050)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27250)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24089)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20874)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34339)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22513)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25151)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant