Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Vài cảm nghĩ về Bát Nhã Tâm Kinh

05 Tháng Chín 201000:00(Xem: 20054)
Vài cảm nghĩ về Bát Nhã Tâm Kinh

Khi còn nhỏ, nhân dịp về nhà Bà Ngoại để coi chừng bà đang đau nặng, tôi có dịp đọc Bát Nhã Tâm Kinh trong tủ sách kinh của Ngoại. Tôi đọc, nhưng chỉ hiểu mơ hồ về sự huyền nhiệm của bản kinh (nếu tụng niệm mỗi ngày thì sẽ được hưởng phước). Ðến nay đọc lại bản kinh nầy mới thấy được nhiều ý nghĩa thâm sâu hơn. Tôi không là gì cả - không phải tu sỉ, không phải cư sĩ, cũng không phải học giả. Lúc trẻ thì chả muốn biết gì đến các triết lý xa xôi, khó hiểu. Nhưng bây giờ già rồi, trải qua bao nhiêu cuộc thăng trầm, vật đổi sao dời, con người đổi trắng thay đen, lên voi xuống chó, bệnh tử vô thường..., vô cùng thấm thía với chữ Không. Chữ Không như có một cái gì huyền dịu, một lực hút rất mạnh làm tôi say mê. Ðọc Bát Nhã Tâm Kinh, tôi thấy như có một luồng gió mới, nó phá bỏ tất cả quan niệm, chối bỏ luôn cả cái hiện hữu. Tôi viết bài nầy theo sự hiểu biết đơn giản của tôi, không chú thích rườm rà. Thật ra đã có hàng vạn quyển sách và bài viết của các nhà sưhọc giả cao thâm, nhưng rốt lại cũng không ai hiểu gì nhiều. Có cần phải đọc nhiều, nghiên cứu chi li từng chữ, từng câu? Thật ra một chữ cũng quá đủ để giác ngộ, vì đến một lúc nào đó, giác ngộ sẽ đến như một làn chớp. Tâm kinh phải chăng là một chiếc lá trong một nhúm lá mà Phật đã truyền lại cho chúng ta?

oo0oo

Bát Nhã Tâm Kinh tên gọi tắt của Bát Nhã Ba La Mật Ða Tâm Kinh, Phật thuyết giảng lúc ngoài 60 tuổi, là một bản văn ngắn nhất về Bát Nhã Ba La Mật. Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 260 chữ. Đây là bản lưu hành phổ biến nhất trong giới Phật tử Nhật bản, Chân ngôn tông, Thiên thai tôngThiền tông. Sau đây là bản dịch Tâm Kinh của Huyền Trang, năm 649, đời nhà Đường.


Bát Nhã Ba La Mật Ða Tâm Kinh
Ðường Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang dịch

Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Balamậtđa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.
Xá lợi tử! Sắc bất dị Không. Không bất dị sắc. Sắc tức thị Không. Không tức thị sắc. Thọ tưởng hành thức diệc phục như thị.
Xá lợi tử! Thị chư pháp Không tướng: bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm.
Thị cố Không trung: vô sắc, vô thọ tưởng hành thức; vô nhãn nhĩ tỉ thiệt thân ý; vô sắc thanh hương vị xúc pháp; vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới.
vô minh diệc vô vô minh tận nãi chílão tử diệc vô lão tử tận .
khổ tập diệt đạo .
Vô trí diệc vô đắc. Dĩ vô sở đắc cố.
Bồ đề Tát đoã y Bát Nhã Balamậtđa cố tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh niết bàn.
Tam thế chư Phật y Bát Nhã Balamậtđa cố đắc A nậu Đa la Tam miệu Tam Bồ đề.
Cố tri Bát Nhã Balamậtđa thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư!
Cố thuyết Bát Nhã Balamậtđa chú, tức thuyết chú viết:
Yết đế, Yết đế, Bala yết đế, Bala tăng yết đế, Bồ đề, Tát bà ha!

Bản Việt dịch của Thích Trí Thủ

Bồ tát Quán tự tại khi hành Bát Nhã Ba La Mật Ða sâu xa soi thấy năm uẩn đều không, vượt qua mọi khổ ách.
Xá Lợi Tử! Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc; sắc tức là không, không tức là sắc; thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy.
Xá Lợi Tử! Tướng không các pháp đây, chẳng sanh chẳng diệt, chẳng dơ chẳng sạch, chẳng thêm chẳng bớt.
Cho nên, trong không, không sắc, không thọ, tưởng, hành, thức; không mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không nhãn giới cho đến không ý thức giới .
Không vô minh cũng không vô minh hết; cho đến không già chết, cũng không già chết hết.
Không khổ, tập, diệt, đạo.
Không trí cũng không đắc, bởi không sở đắc.
Bồ Tát nương Bát Nhã Ba La Mật Ða, nên tâm không mắc ngại; vì không mắc ngại nên không sợ hãi, xa lìa mộng tưởng điên đảo, rốt ráo niết bàn.
Chư Phật ba đời nương Bát Nhã Ba La Mật Ða nên chứng A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ Ðề.
Nên biết Bát Nhã Ba La Mật Ða là chú thần lớn, là chú minh lớn, là chú vô thượng, là chú không gì sánh bằng, trừ hết mọi khổ ách, chắc thật vì không dối.
Nên nói chú Bát Nhã Ba La Mật Ða, nên nói chú rằng:
Yết đế, Yết đế, Ba la Yết đế, Ba la tăng Yết đế, Bồ đề, Tát bà ha.

"Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Ða thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách."

Bồ Táttiếng gọi tắt "Bồ đề tát đỏa" có nghĩa là chúng sanh cầu đạo giác ngộ. Bát Nhã là cái sâu xa, bát ngát, đẹp đẽ, dịu dàng. Ba La Mật là tới bờ bên kia. Có người ví Bát Nhã như là một con thuyền chở người qua bờ bên kia. Quán là quan sát các đối tượng một cách tự tại không để các yếu tố giả tạo làm lạc hướng nhìn của hành giả. Quán tự tại Bồ Tát là một cách nói về sự đi tìm cái tính bản nhiên bên trong của chính mình, là lắng nghe tiếng kêu của trần thế, mở rộng tấm lòng từ bi để giúp người.
Tâm Kinh nói phải tu tập thực hành sâu xa mới đạt đến Bát Nhã, mới có một cái nhìn mới mẻ về cuộc sống.
Cái diệu dụng của Tâm Kinh chính là sự xác tín với những người tu tập là loại trừ được hết mọi khổ đau vì toàn bộ kinh đã chối bỏ tất cả những gì hiện hữu, nhất là thân xác (ngũ uẩn) chỉ là không.
Có năm thành tố kết hợp lại để thành cái “tôi” của con người gồm có thân (sắc), và tâm (thọ, tưởng, hành, thức). Phật không nhìn con người riêng biệt mà con người chỉ được kết hợp bởi những cái duyên tương khắc mà thành. Thân đứng trước tâm là đúng vì không có thân thì làm sao có tâm được. Tiêu diệt thân là tự huỷ diệt. Phật không dạy thế! Thân còn là do hơi thở (bởi thế tập yoga là để chăm sóc thân thểquán niệm hơi thở là để giữ thân không mất). Có thân thì mới có cảm giác , cảm xúc do giác quan (thọ). Từ giác quan dẫn đến sự nhận biết các cảm giác (tưởng). Tưởng dẫn đến tưởng tượng, vẽ vời tạo ra thành kiến, ghen tị, giận hờn... Ðây có thể nói là tri thức, cái tri thức biện biệt, phân chia. Nhưng tưởng chỉ còn là một thái độ chưa chuyển sang hành động (hành). Hành tạo ra cái tốt xấu. Hành chỉ là vô tâm như con nít hành động mà không có tưởng. Thức (ý thức đứng sau cùng). Hành mà có ý thức tức là đã tạo nghiệp. Thức do những kinh nghiệm, thói quen, khởi động từ bên ngoài .Vì vậy ta sống giống như đóng một vai tuồng mà cứ tưởng đó là sống thật. Vạn vật không có tự tánh mà nhờ tác dụng của thức chúng ta mới nhận biết được sự vật. Người chết cũng có năm căn (mắt, tai, mũi, lưởi, thân) nhưng không biết gì cả.
Ngũ uẩn tạo thành cái “tôi”. Nỗi khổ của con người là do cái “tôi” lớn quá nên luôn luôn bám víu và nghĩ rằng nó sẽ trường tồn vĩnh viễn. Ðó là “chấp ngã” hay là "ngã kiến" (chỉ thấy cái tôi). Theo Bát Nhả Tâm Kinh, nó chỉ là giả tướng, không có thật, giống như tiếng kêu của một động cơ, khi gỡ bỏ các bộ phận trong động cơ thì tiếng kêu không còn nữa. Ngũ uẩnvô thường nhưng nếu Thức đúng thì Hành đúng, Tưởng đúng, Thọ đúng. Và Thân sẽ an nhiên tự tại. Bát Nhã giúp cho Thức đúng để thấy cái diện hữu chân thật, không bám víu vào cái Ngã vô thường.

"Xá lợi tử! Sắc bất dị Không. Không bất dị sắc. Sắc tức thị Không. Không tức thị sắc. Thọ tưởng hành thức diệc phục như thị."

Không đây chẳng phải là "không có" mà là "không có thật như ta nhận thức" . Bởi vậy cái mà ta gọi là "có" chỉ là cái "không có thật" ( giả hữu) . Chẳn hạn màu sắc hay âm thanh chỉ là những làn sóng .
Sắc là thân xác được tạo nên bởi tứ đại (đất - chất đặt như xương, nước - chất lỏng như máu, gió - chất động như hơi thở, lửa - chất nóng như nhiệt độ), những nguyên tố mà do cái duyên nào đó kết hợp lại. Duyên là những vật hỗ trợ cho nhân để sinh ra quả, giống như hột lúa (nhân) có sức phát sinh thành cây lúa (quả) khi có những điều kiện thuận tiện (duyên) như đất, nước, phân... giúp hột lúa sinh ra cây lúa. Khoa học ngày nay đã khám phá cái gène của các loài đều giống gène của loài người, chỉ khác nhau số lượng gène mà thôi. Cái cây có gène giống con người như vậy cái cây kia cũng giống như con người.
Không trong Bát Nhã là sự Trống Rỗng (Emptiness) như bầu trời trong vắt hay như khoảng trống của căn nhà, khoảng trống của cái thùng, cái tô, cái chén.... Sắc là do duyên tạo thành, nên biến đổi theo không gian, thời gian và từ đó sinh ra mọi khổ đau. Như vậy Sắc không khác với Không vì Không khôngtự tính, tức là mọi hiện tượng thân tâm đều không có tự tính và cái Không cũng không khác với Sắc vì Không vẫn có hình thể, vẫn hiển hiện ra đó dưới những hình dạng xuất hiện (nước trong bầu thì tròn, trong ống thì dài). Einstein nói vật chất chính là năng lượng, như vậy năng lượngvật chất là một. Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng giống như Sắc Không .“Thọ bất dị không, Không bất dị thọ, Thọ tức thị không, Không tức thị thọ”. Và các uẩn khác cũng đều như vậy. Cuối cùng ngũ uẩn cũng là Không. Chúng ta không còn chấp ngã nữa. Không có cái “tôi” thì không còn vướng víu và bị ràng buộc vào điều gì nữa . Khi ý thức cuộc sống là thay đổi, vô thường, bất an thì mọi khổ đau sẽ tiêu trừ.

"Xá lợi tử! Thị chư pháp Không tướng: bất sanh bất diệt,bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm."

Vạn vật hữu hình với các hiện tượng trong vũ trụ là pháp. Nhưng theo Bát Nhã thì pháp cũng chỉ là Không Tướng, không có tính riêng biệt. Khoa học vật lý ngày nay cũng cho rằng thế giới hữu hình cũng chỉ là Không Tướng (sắc tức không). Hiện tượng của vũ trụchúng ta thấy, tưởng là Có nhưng thật sự là Không, không có thật, như sóng biển khi hợp khi tan nhưng bản thể của nó không bao giờ thay đổi (sóng tan chứ nước không tan). Bất sanh bất diệtbản thể thường trụ. Mây, mưa hợp tan vô định. Hòn đá, hạt cát vở tan thành bụi. Tất cả chỉ là sinh diệt của vũ trụ. Tại sao ta sinh ra đời? Có phải là cái duyên của cái trứng và tinh trùng gặp nhau. Nếu có một trục trặc nào đó trong quá trình thụ thai thì đã không có ta. Sinh diệt là nổi lo lớn nhất của con người, nhưng sinh và diệt chỉ là một, chỉ là một sự chuyển hóa năng lượngnăng lượng thì được bảo toàn.
Bất cấu (không dơ) và bất tinh (không sạch) là nói tác dụng của nó không thể phân biệt được, đó là hai mặt của con người. Không dơ bẩn cũng không sạch sẽ. Không tốt, không xấu. Tốt xấu đối với người đời khác với tốt xấu của Phật giáo. Người đời thường bị ràng buộc trong cái giả tướng nên dùng đến những danh từ "lợi hại, thiện ác, tốt xấu ..." rồi đặt thành quy luật để bảo vệ cái Thiện và bài trừ cái Ác. Ðừng lấy cái đức tính tốt nầy mà đả phá cái tánh xấu kia, phải nếm tất cả mùi vị cay đắng của cuộc đời rồi mới thấy được cái chân thật thường hằng. Ðừng nghĩ đến Thiện, Ác thì mới hiện rõ được thật tướng.
Không tăng, không giảm, là hiện tượng viên mãn. Thuỷ triều lên bên nầy thì xuống bên kia, trên một dòng sông, bờ bên nầy sói mòn thì bờ bên kia được bồi đắp. Bát Nhã đã chối bỏ cái thuyết nhị nguyên làm phiền toái con người.

"Thị cố Không trung: vô sắc, vô thọ tưởng hành thức; vô nhãn nhĩ tỉ thiệt thân ý; vô sắc thanh hương vị xúc pháp; vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới ."

Trong cái tính Không đều không có sắc - thọ - tưởng - hành - thức. Bản chất của ngũ uẩn chỉ là cái duyên tương tác, tương sinh, có sắc nên có thọ, có hành nên có thức... Từ cái Trống Rỗng đến cái Không có gì hết. Trong đoạn văn này Tâm Kinh muốn phá chấp, không chấp vào bất cứ việc gì cả. Giải thoátgiải thoát sự khổ đau của chính bản thân mình . Cái tôi không có thực vì thân xác tôi chỉ là giả tạm. Không có thân, tức nhiên khônglục căn (mắt, tai, mũi, luỡi, xúc giácý tưởng). Ðấy là các cửa ngỏ để đưa buồn vui sướng khổ vào trong ta. Không có sắc, thanh âm, mùi, vị, thì cũng không có pháp gì cả .
Thấy là do mắt. Thấy một hoa đẹp thì trầm trồ khen ngợi, khi thấy hoa tàn thì suýt xoa, tiếc rẻ, đâu có biết rằng hoa sớm nở tối tàn, chỉ là vô thường. Ðó là do cái tâm của ta nghĩ ra vậy. Từ cái ý nghĩ đi đến cái tâm thức biện biệt, khen chê, xấu tốt, được thua, hơn kém... Hoa xấu hay đẹp là do ý thức của chúng ta vậy.

"Vô vô minh diệc vô vô minh tận nãi chílão tử diệc vô lão tử tận."

Trong thập nhị nhân duyên, vô minhyếu tố đầu tiên. Vô Minh là nguồn gốc của tất cả khổ đau. Diệt được vô minhgiải thoát. Nhưng Tâm Kinh lại dạy rằng : " Không có ngu dốt mà cũng không có gì gọi là ngu dốt cả". Ai ngu, ai khôn ? Trong cuộc đời có khi bị mắng là ngu nhưng đó là người khôn (Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ, người khôn người đến chốn lao xao). Xóa bỏ cái dại khôn đó là Bát Nhã. Tâm Kinh dạy tiếp "Không có già, không có chết, mà cũng không có "không già" và không có "không chết" . Sống chết là lý đương nhiên, nên ta cũng không nên lo sợ nó. Thật ra chúng ta đã mất biết bao thời gian để lo sống, sợ chết. Mỗi giây phút hiện tại đều quý giá và có ý nghĩa. Ta có bao giờ sống thật với hiện tại mà lúc nào cũng hối tiếc ngày qua và mong đợi một ngày mai tốt đẹp. Ngũ uẩn đã là không thì sống chết cũng là không. Trong Không, không có gì sinh ra nên cũng không có gì mất đi.

"Vô khổ tập diệt đạo ."

Khổ là đau khổ về tinh thần và thể xác. Tập chính là ham muốn, nguyên nhân gây ra đau khổ, nó là đầu mối của tham sân si. Diệt là chấm dứt nguyên nhân của đau khổ. Ðạo là phương pháp hành trì thực tế để chấm dứt đau khổ. Khổ Tập là hai nhân quả thuộc thế gian. Diệt Ðạo là nhân quả xuất thế gian. Cặp nào cũng có nhân quả.
Chân lý thứ nhất của Tứ Diệu Ðế nói về tính chất của khổ bao gồm sinh lão bệnh tử, hay mọi thứ liên quan đến ngũ uẩn đều khổ.
Nhưng thân không có thì lấy gì có khổ. Không Khổ thì Tu Tập để Tiêu Diệt và Ðạt Ðạo làm gì ?

"Vô trí diệc vô đắc. Dĩ vô sở đắc cố."

Tâm Kinh phá chấp từ thấp lên cao, từ chấp ngã đến chấp pháp, cuối cùng phá cả chấp trí và chấp đắc. Trí là phần cao nhất của lục độ (sáu hạnh : bố thí ba la mật, giới, nhẫn, tinh tiến, định và trí huệ). Trí còn thì con người còn phân biệt, nên khó mà giải thoát trọn vẹn được vì tâm trí luôn luôn chứa đựng tri thức. Thiền phải vô trí, chỉ chứng nghiệm mà không lý luận . Có vô trí chúng ta mới thoát khỏi óc nhị nguyên, nhưng Vô Ðắc mới giải quyết rốt ráo, không có cái gì để đạt cả. Có được thì có mất, nên cần phải tránh cái Ðắc. Cái chúng ta phát hiện có sẵn đó. Còn chấp Ðắc là còn mong muốn. Còn mong muốn thì không giác ngộ được. Phải vượt qua cái Ðắc thì mới tới cái Không .
(Câu "Dĩ vô sở đắc cố = bởi không sở đắc", xưa nay các nhà chú giải thường dựa vào nội dung của bản văn để ngắt vào đoạn sau. Nhưng gần đây có một vài nhà luận giải cho rằng nó phải thuộc đoạn trước vì Tâm Kinh muốn xác nhận thêm một lần nữa về chữ Vô Ðắc)

"Bồ đề Tát đoã y Bát Nhã Balamậtđa cố tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh niết bàn."

Hành giả tu tập theo sáu phép Ba La Mật, trong đó có phép tu quán Bát Nhã, đạt đến trình độ tâm vô sở đắc nên được coi như là Bồ Tát (Bồ Ðề Tát Ðỏa). Người thực hành Bát Nhã cao thâm, không sở Ðắc nên không còn trở ngại gì nữa, cũng không còn sợ hãi, rời bỏ được những mộng tưởng, ảo vọng đảo điên thì sẽ đạt đến bờ bên kia, đạt đến niết bàn. Niết bàn chính là sự an lạc trong từng giây phút hiện tại. Niết bàn có sẵn đó thôi, không tìm đâu xa.

"Tam thế chư Phật y Bát Nhã Balamậtđa cố đắc A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Ðề."

Các bậc giác ngộ (tam thế chư Phật : quá khứ, hiện tại, vị lai) hiểu được cái vô thường của kiếp người, không còn đảo điên vì ảo vọng là nhờ thực hành theo Bát Nhã Ba La Mậtđạt đến cái không, nên đạt "Vô thượng Chánh đẳng, Chánh giác" (A nậu Đa la Tam miệu Tam Bồ đề). Tất cả mọi người ai cũng có khả năng hiểu được chân tính của vạn vật. Vì thế nếu hành giả chịu tinh tấn, nhẫn nhục, thiền địnhthực hành Bát Nhã thì sẽ đắc A nậu Đa la Tam miệu Tam Bồ đề. Ðắc đây không nghịch lý với cái Vô Ðắc ở trên mà là đắc cái Không, cái có sẵn đó. Ðắc cái không có gì, tức Ðắc mà không Ðắc.

"Cố tri Bát Nhã Balamậtđa thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư!"

Chú, đại thần chú (rất thần diệu), đại minh chú (rất sáng suốt), vô thượng chú (cao nhất), vô đẳng đẳng chú (không có gì sánh bằng) là cái công năng tóm thâu mọi nghĩa lý để từ đó phát sinh ra mọi diệu dụng, là một thứ linh ngữ, mật ngữ thiêng liêng mà ở trong trạng thái nào đó con người hiểu được, do đó với nguời nầy thì linh mà với người khác thì không linh. Cũng có thể đây là tiếng reo vui mừng khi đạt đến giác ngộ, không còn đau khổ. Cái kết quả nầy hiện thực, cho nên khẳng định lại một lần nữa Tâm KinhChân Thật, không có gì lừa dối.

"Cố thuyết Bát Nhã Balamậtđa chú, tức thuyết chú viết:"

Chú linh diệu như vậy, cho nên hãy nói chú Bát Nhã Ba La Mật Ða và nên nói chú rằng :

"Yết đế, Yết đế, Bala yết đế, Bala tăng yết đế, Bồ đề, Tát bà ha!"

Nguyên ngữ chữ Phạn là :

“Gate, gate, paragate, parasamgate, bodhi, svaha!”

गते गते पारगते पारसंगते बोधि स्वाहा

Ðọc chú :

Tuệ Sỹ dịch:

"Đi qua, đi qua, qua bờ bên kia, qua đến bờ bên kia. "
Theo Suzuki thì chú không dịch và không giải nghĩa, vì chú không thể hiểu và cứ giử y như thế để tăng thêm uy lực của linh ứng, chỉ dịch âm theo tiếng Phạn để có tác dụng mầu nhiệm.
Suzuki kết : “Sự thực, hình như toàn thể bản kinh được viết ra vì câu thần chú đó, và không có gì khác hơn”.

o0o

Nói tóm lại muốn hiểu Tâm Kinh không nhờ kinh nghiệm từ bên ngoài mà từ cái Phật tính ở bên trong. Từ “thực hành” được lập đi lập lại nhiều lần trong kinh. Như vậy đọc Tâm Kinh là phải thực hành, tự mình đi tìm ra những vi diệu của nó. Tâm Kinh cũng không thể coi như là những câu chú, câu niệm có những uy lực huyền bí có thể giúp con người thoát khỏi tai nạn, bênh tật, khổ ải, trầm luân, mà chính con người phải tự mình khám phá ra để tự giải thoát.
Vậy tâm kinh có phải là một liều thuốc để hóa giải cái tình trạng bất ổn của chúng sinh ?
Trong các bản Tâm Kinh được truyền tụng chỉ đào sâu chữ nghĩa, triết lý cao siêu, chứ không nói gì nhiều về khía cạnh hành động. Muốn hiểu Tâm Kinh là phải sống thiền, hành thiền liên tục trong cuộc đời của hành giả.

Thiền bằng cách làm thế nào để xóa bỏ tri thức, không vọng động, để một lúc nào đó chúng ta đạt đến một trạng thái hồn nhiên, nhẹ hẫng. Thiền là để tâm mình lắng đọng, sau đó mới quán, dùng hơi thở để điều tâm. Muốn xóa bỏ vọng động không cách nào hay hơn là quán niệm hơi thở . Quán niệm hơi thở là gì? Ðó là chú ý đến hơi thở vào, thở ra, không để ý đến cảm xúc. "Thở vào thì biết là mình đang thở vào; thở ra thì biết là mình đang thở ra; thở vào một hơi dài thì biết mình đang thở vào một hơi dài; thở ra một hơi ngắn thì biết mình đang thở ra một hơi ngắn ..."

Người xưa luyện khí bằng cách thở bụng như cách thở của trẻ sơ sinh, đưa hơi xuống dưới phía rốn (thở cơ hoành).
Thiền là thở. Quán hơi thở là lúc nào cũng nghĩ đến hơi thở của mình là được rồi. Nhưng nếu ngồi bán già hoặc kiết già để nghĩ đến hơi thở thì có lợi hơn nhiều.
Thay đổi hiểu biết dễ hơn thay đổi tâm . Mọi tình cảm, quan niệm của chúng ta đều do Tâm mà ra.
Tâm Kinh làm đảo lộn mọi suy tư, thành kiến của con người. Tâm Kinh chối bỏ hết, chối bỏ luôn cái tâm cá nhân của chúng ta. Nhìn cuộc đời với một thái độ khác. Phải chăng là phải thay đổi tâm. Không, tâm vẫn còn đó, chỉ tháo bỏ những vướng mắc, tri thức, thành kiến mà ta có từ trước, tâm của chúng ta sẽ hiện ra một cách mới mẻ, trong sáng. Trước hết chúng ta phải nhìn lại bản thân của chúng ta, đừng lên án, đừng phê bình, đừng bênh vực để thực hiện tâm không, tức không nghĩ đến điều thiện mà chúng ta ưa thích và điều ác mà chúng ta ghét bỏ, như thế những vấn đề khác như vinh nhục, thị phi, thất tình lục dục đâu có làm điên đảo chúng ta được. Chánh kiến về sự vật không thể nhận thức theo lòng ưa ghét hay yêu thích của chúng ta được. Cuộc sống tự nó đâu có thiện ác vì mỗi lúc mỗi chứa đựng một khoảnh khắc thường trụ. Khi chúng ta nói cái nầy Có là chúng ta khẳng định, cái kia Không là chúng ta phủ định. Ðó là suy luận theo kiểu nhị nguyên. Thực tướng của vạn vật không chịu được sự phân chia, biện biệt. Nó không phải Có mà cũng không phải Không . Màu trắng là trắng, nhưng cũng không phải là trắng (phân tích ra nó gồm có 7 màu) .

Con người vô tận vì nó là "sắc không". Cái tâm cũng vô tận vì nó là "tâm không". Ðem cái vô tận bên ngoài mà ứng cái vô tận bên trong là hành động của bậc giác ngộ . Giác ngộđến bờ bên kia (đáo bỉ ngạn), nhưng đấy chỉ là nghĩa bóng, thực ra cái bờ ấy không có ở đâu cả, nhưng ở đâu cũng có. Không phải đợi kiếp sau mới đạt đến niết bàn mà ngay bây giờ trong nháy mắt nếu chứng ta đốn ngộ chúng ta cũng đạt đến niết bàn rồi. Chúng ta cần phải đạt đến tâm trạng không còn so sánh bờ bên nầy hay bờ bên kia, không có sinh, không có tử, không có chúng sinh, không có Phật, không có Mê, không có Ngộ. Cũng như không có bóng tối và ánh sáng. Ðó là chúng ta đã giải thoát, đạt đến cảnh trí niết bàn.

San José ngày 27-6-2009


Tham khảo :
-Nghe đọc kinh
-Nghĩ từ trái tim - Ðỗ Hồng Ngọc
-Dẫn vào Tâm Kinh Bát Nhã - Tuệ Sỹ
-Bát Nhã Tâm Kinh giảng giải - Thích Thanh Từ
-Tâm Kinh Bát Nhã Ba La Mật Ða - Thích Trí Thủ
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 64)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 144)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 167)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 223)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 151)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 203)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 188)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 222)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 236)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 317)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 559)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 422)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 434)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 529)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 718)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 767)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 798)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 801)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 693)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 680)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 684)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 793)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 813)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 907)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 676)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 582)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 683)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 804)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 685)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 693)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 789)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 812)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 794)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 838)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 864)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 855)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1043)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 916)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1578)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1023)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1172)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 921)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1173)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1087)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1087)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1232)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1507)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1941)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1054)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1318)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1062)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 917)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1042)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1078)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1495)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1238)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1255)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 991)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1149)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant