Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Về một bức tranh của Phật Thích Ca

12 Tháng Hai 201200:00(Xem: 14533)
Về một bức tranh của Phật Thích Ca

Lời Ban Biên Tập TVHS:

Để trả lời nghi vấn của một số độc giả về một bức tranh đen trắng vẽ Đức Phật Thích Ca khi Ngài còn tại thế (khoảng năm 41 tuổi) do một đệ tử của Ngài là Phú Lâu Na (Purna) vẽ, chúng tôi đã liên lạc với tác giả quyển sách Mùi Hương Trầm, GSTS. Nguyễn Tường Bách, người đã đề cập đến bức tranh vẽ này trong quyển sách của ông. Tác gỉa đã gửi cho chúng tôi bài đề ngày 16-1-2003 trả lời ông Vương Như Dương Chuyết Lão, người cũng có thắc mắc tương tự. BBT/TVHS xin cảm ơn tác
giả quyển sách Mùi Hương Trầm và bài viết này. Riêng về bức tranh vẽ màu được một Phật tử Trung Hoa làm lại, đưa mầu vào và ghi thêm chữ Hán (dòng chữ Hán bên trên là Thích Ca Mâu Ni Phật và hai hàng chữ Hán hai bên là bài kệ lấy từ kinh Kim Cang: "Nhất thiết hữu vi pháp/ Như mộng, huyễn, bào, ảnh/ Như lộ diệc như điện/ Ưng tác như thị quán." Mời quý độc giả xem tiếp bài viết của GSTS. Nguyễn Tường Bách: Về Một Bức Tranh Của Phật Thích Ca

VỀ MỘT BỨC TRANH CỦA PHẬT THÍCH CA
Nguyễn Tường Bách

Trước hết, người viết bài này xin trân trọng cám ơn những nhận xét đầy khích lệ của tác giả Vương Như Dương Chuyết Lão về “Mùi Hương Trầm“. Những phê bình tốt đẹp đó đem lại thêm cho người viết lòng tri ân về những nhân duyên sâu kín đã tạo tác nên tác phẩm này, trong đó người viết chỉ làm một nhiệm vụ duy nhất là viết lại những gì mình từng thấy, từng nghe, từng đọc.

Trong bài viết, tác giả Vương Như Dương Chuyết Lão nêu nghi vấn về một tấm hình của đức Thích-ca trích đăng trong “Mùi Hương Trầm“. Tác giả nêu câu hỏi, phải chăng bức hình này đích thực là từ thời lúc Phật còn tại thế truyền lại, do đệ tử của Ngài là Phú-lâu-na (Purna) vẽ lúc Ngài khoảng 41 tuổi. Nghi vấn này cho ta thấy cặp mắt sắc bén của tác giả Vương Như Dương Chuyết Lão, nó đòi hỏi một câu trả lời thành tâm và nghiêm túc.

blank

Phật Thích-ca lúc 41 tuổi

Trước hết, bức hình này gây nhiều sự kinh ngạcthú vị cho người xem, trong đó có tác giả của “Mùi Hương Trầm”. Tất cả những hình tượng khác của Phật Thích-ca đều có tính chất tượng trưng. Chỉ duy nhất bức hình trên đây trình bày Ngài như một con người bằng xương bằng thịt. Bức hình này có thật không?

Về bức hình này cũng như về nhiều chi tiết khác trong “Mùi Hương Trầm“, tác giả phải dựa vào các nguồn thông tin khác, nhất là kinh sách, tư liệu của các tác giả khác, chứ không được thấy tận mắt. Ta có thể tìm thấy thông tin về bức hình trên của Phật Thích-ca trong hai tài liệu sau đây. Một là, trong tác phẩm Vrai Zen của thiền sư Taisen Deshimaru (1914-1982). Thiền sư Deshimaru đến Pháp năm 1967 và xuất bản tác phẩm đầu tay nói trên vào năm 1969. Tác phẩm này cũng đã được Ngô Thành Nhân/Trần Ðình Cáo dịch ra Việt ngữ dưới tên “Chân Thiền“ và xuất bản năm 1992. Tài liệu thứ hai là của thiền sư Tinh Vân (Hsing Yun). Thiền sư Tinh Vân, sinh năm 1927 tại Trung Quốc, là tổ thứ 48 của dòng Lâm Tế. Thiền sư Tinh Vântác giả của gần 30 tác phẩm, sáng lập hội Buddha's Light International Association (BLIA) và hiện nay đi du hóa trên toàn thế giới.

Trong các tác phẩm của Tinh Vân ta tìm thấy một tài liệu mang tên Seeing the Buddha[1][1]. Trong tác phẩm này Tinh Vân luận giải rất hay về các loại “thân“ của Phật, từ tranh tượng thông thường đến các dạng “hiện tướng“ khác nhau của Pháp thân Phật. Ðặc biệt, dựa trên kinh A-hàm, Tinh Vân cho hay, bức tượng đầu tiên của Phật là do nhà vua Udayana của nước Kausambi cho tôn tạo lúc Ngài còn tại thế. Truyền thuyết kể lại, lúc Phật đến cung trời Tam thập tam để giảng pháp cho mẹ, nhà vua cho đẽo bức tượng bằng gỗ chiên đàn để tưởng nhớ đến Phật. Sau ba tháng, lúc Phật trở lại thế gian, bức tượng trở nên sống động và đến “chào“ Ngài. Phật mỉm cười nhìn tượng và nói: “Ba tháng qua chắc ngươi mệt lắm nhỉ!“. Sau nhà vua Udayana, vẫn theo Tinh Vân trích kinh A-hàm, nhà vua Ba-tư-nặc của nước Kiều-tát-la và trưởng giả Cấp Cô Ðộc cũng cho đúc tượng của Phật.

Cũng trong tác phẩm này, Tinh Vân viết thêm: “Trong những năm qua, chúng ta được nghe có một bức tranh của Phật còn xưa hơn cả bức tượng đầu tiên. Viện Bảo tàng Anh quốc tại Luân Ðôn có một sưu tập gồm nhiều bức tranh của Phật. Trong những bức tranh đó có một bức mà viện bảo tàng tôn quí nhất. Ðó là một bức tranh vẽ Phật lúc Ngài 41 tuổi. Bức tranh do Phú-lâu-na vẽ, một vị đệ tử của Phật và màu sắc (của bức tranh) ngày nay vẫn còn sinh động. Hình chụp của bức tranh này hiện nay được lưu hành tại Nhật và Ðài Loan“.

Như thế, thiền sư Tinh Vân cũng chỉ nghe nói đến bức tranh này chứ chưa được thấy tận mắt. Người viết bài này cũng chưa có dịp đến viện bảo tàng British Museum để tìm kiếm bức tranh nọ, nhưng đã lục lọi trên Internet, vào trong các bộ sưu tập tranh của viện bảo tàng nhưng cũng không thấy bức tranh nọ được trưng bày trong mạng. Vì thế lai lịch bức tranh, liệu nó có thật hay không, vẫn còn là một nghi vấn. Người ta chỉ biết chính xác là rất nhiều cổ vật của Ấn Ðộ được mang về Anh vì Ấn Ðộ một thời là thuộc địa của Anh, và không phải cổ vật nào cũng được trình bày cho công chúng xem. Do đó, nghi vấn này không biết bao giờ mới giải đáp chính xác được. Ðộc giả nếu có ai đã từng xem được bức tranh hay có thông tin gì về nó, xin thông báo cho chúng ta được biết chung.

Trong bài này, ta hãy thử tìm hiểu thêm các nguồn tài liệu khác để có một cái nhìn khách quan về niên đại của tranh tượng về Ðức Phật. Một nguồn thông tin cho hay, tượng Phật cổ nhất được tìm thấy là tại Tích Lan, với niên đại của thế kỷ thứ ba trước công nguyên. Theo những tài liệu khác, tại Gandhara (Tây bắc Ấn Ðộ, ngày nay thuộc về Afghanistan), lúc vùng này bị Hy Lạp chiếm đóng trong khoảng thế kỷ thứ nhất trước công nguyên đến thế kỷ thứ sáu sau công nguyên, con người bắt đầu trình bày Ðức Phật với nhân trạng, theo truyền thống Hy Lạp. Theo nhà Phật học W.Schumann[2][2], hình ảnh đức Phật bắt đầu được tôn tạo khoảng 450 năm sau ngày Ngài diệt độ. Theo L.M.Joshi thì bức tượng Phật cổ nhất được tìm thấy tại Mathura (Bắc Aán) với niên đại của thế kỷ thứ nhất sau công nguyên. Nói chung các nhà nghiên cứu khoa học đều thừa nhận là không thể biết đích xác và cũng không hoàn toàn thống nhất về niên đại của tranh tượng đầu tiên của Ðức Phật.

Ngoài vấn đề niên đại, các nhà nghiên cứu phương Tây có những lời giải thích hữu lý về vai trò của tranh tượng. Theo họ, ngày xưa đối tượng để thờ cúng không phải là tranh tượng mà là xá lợi và các tháp chứa đựng xá lợi. Theo thời gian, quan niệm thờ cúng xá lợibảo tháp hẳn không thể tồn tại được lâu, nhất là với sự phát triển rộng khắp của đạo Phật. Ngày nay người ta phát hiện một văn bản du nhập vào Trung quốc năm 148 sau công nguyên, trên đó có ghi: “...đệ tử đích thực của Phật cần đảnh lễ tranh tượng của Ngài mỗi sáng mỗi tối và thường xuyên đốt đèn để tỏ lòng tôn kính Ngài...“[3][3].

Với những lẽ trên, ta có thể chắc chắn tranh tượng đức Phật đã hình thành chậm nhất từ đầu công nguyên. Ðó là điều khoa học có thể chứng minh. Còn các bức tượng bằng gỗ và bằng vàng mà Tinh Vân nói đến, bức tranh vẽ đức Phật của Phú-lâu-na mà cả hai thiền sư khả kính Taisen Deshimaru lẫn Tinh Vân nhắc nhở thì sao? Nói một cách nghiêm túc, các tác phẩm nghệ thuật đó chưa được chính thức khẳng định và thừa nhận. Liệu một ngày nào đó, bảo tàng viện của Luân-đôn sẽ trình bày bức tranhPhật tử có thể chiêm bái bảo vật vô giá nói trên, điều đó cần một nhân duyên lớn.

Thế nhưng, trong lúc chờ đợi, có lẽ ta nên nghĩ như Tinh Vân trong tác phẩm Seeing the Buddha. Theo đó, Thân Phật chỉ là Ứng thân của Ngài, bức tranh (nếu có) lại càng là một phần của Ứng thân. Còn Pháp thân của Ngài là đang ở khắp nơi và hiện hữu trong từng khoảnh khắc.

NTB (16.1.03)

Bản PDF: VỀ MỘT BỨC TRANH CỦA PHẬT THÍCH CA (Nguyễn Tường Bách)


[1][1] http://www.blia.org/english/publications/booklet/pages/21.htm

[2][2] W.Schumann, Buddhistische Bilderwelt, Diederichs Verlag 1986

[3][3] Theo L.M.Joshi, Buddhistische Kunst und Architektur, trích trong Die Welt des Buddhismus, Orbis Verlag 2002

 

Bài / Sách liên quan đến chủ đề:
MÙI HƯƠNG TRẦM - Nguyễn Tường Bách

Source: thuvienhoasen
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1194)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1659)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1595)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1504)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 1092)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1488)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1433)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1346)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1399)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1726)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 1990)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1443)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 1103)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1435)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 2047)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1492)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1569)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1400)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2932)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1389)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1418)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1739)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1698)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1643)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1485)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2650)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1614)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1622)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1418)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1456)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1623)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1577)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1460)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1444)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1529)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2221)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1567)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1531)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1642)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1868)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1546)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1429)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1680)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1432)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1739)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2400)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1481)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 1976)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1692)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1769)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1637)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1962)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1696)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1453)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1741)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1593)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1561)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1346)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1259)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1308)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant