Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Những Hộ pháp vương trong lịch sử Phật Giáo Ấn Độ

19 Tháng Hai 201200:00(Xem: 28688)
Những Hộ pháp vương trong lịch sử Phật Giáo Ấn Độ


Những Hộ pháp vương trong lịch sử Phật Giáo Ấn Độ

Trần Trúc Lâm

 

LỜI GIỚI THIỆU

Tác phẩm “NHỮNG HỘ PHÁP VƯƠNG CỦA PHẬT GIÁO TRONG LỊCH SỬ ẤN ĐỘ” của Bác sĩ Trần Trúc Lâm

 

nhunghophapvuong_0-contentCó không ít người thường viện dẫn câu hỏi triết học: ‘Trứng sinh ra gà hay gà sinh ra trứng’ để phủ nhận đạo lý nhân quả trước sau. Vì đứng từ nghĩa tuyệt đối, mọi sự vật trên thế gian này chỉ là vòng lẫn quẩn không có cái nào trước, cũng không có cái nào sau. Hạt nẩy mầm thành cây, hay cây sinh ra hạt? Lấy nguyên tắc nào để xác định cái nào sinh ra cái nào. Cũng vậy, trứng sinh ra gà hay gà sinh ra trứng, câu trả lời nào cũng đúng và câu trả lời nào cũng sai cả. Phải chăng điều đó biểu thị giá trị nhận thức của con người trở thành vô nghĩa?

Với tôi, không phủ nhận đạo lý tuyệt đối này, nhưng tôi không chấp nhận quan điểm vì tính tuyệt đối mà phủ nhận tính tương đối của cuộc đời. Vì dù gì đi nữa, thân người là một hợp thể của 5 uẩn, nó chỉ nhận thức được qua những dữ liệu từ 6 trần, là những hình ảnh (biểu tượng) của sắc thinh hương vị xúc và pháp. Đồng thời, cơ thể con người chỉ tồn tại khi con người còn ăn uống, hít thở không khí… một đời người cũng chỉ trăm năm, trước và sau cuộc sống này là gì, nó vẫn còn là câu hỏi lớn cho con người. Đó là lý do tại sao đức Phật nói:

Quá khứ không truy tìm,

Tương lai không ước vọng,

Chỉ có pháp hiện tại,

Tuệ quán chính ở đây

(Trung Bộ. Kinh Nhất dạ Hiền Giả).

Nói như thế khhông đồng nghĩa phủ nhận kiếp trước hay kiếp sau, thời gian trước hay thời gian sau, nhưng dù có hay không cũng không là vấn đề quan trọng. Điểm quan trọng là hiện giờ chúng ta đang tồn tại, tồn tại với con người và hòan cảnh chung quanh nó điều mang nghĩa tương đối, hơn nữa mọi vấn đề đều bắt nguồn từ hiện tại. Do vậy, không thể lấy lý domọi vậttương đối là giả tạm mà chúng ta từ chối chúng, chúng ta lại không ăn uống…, không suy nghĩ theo một trật tự của tương đối đó, muợn nó để vươn tới một cái gì đó có ý nghĩa cho cuộc đời. Hay nói một cách khác, chúng ta không nên quá cường điệu tính tuyệt đối mà quên đi cái đạo lý tương đối.

Trong điều kiện con người và hòan cảnh sống con người là như thế, chúng ta lấy gì làm thước đo cho sự nhận thức? Theo tôi, khái niệm không gianthời gian là nguyên tắc cơ bản để nhận thức hay đánh giá bất cứ vấn đề nào, vì không có một sự nhật thức nào lại không liên hệ đến thời giankhông gian. Có nghĩa là tách thời giankhông gian ra khỏi sự vật thì không có nhận thức, hay nói cách khác đối tượng nhận thức đó trở nên mơ hồ lẩn quẩn, giá trị nhận thức trở thành vô nghĩa, ngay cả vấn đề luân lý đạo đức, trật tự xã hội cũng không thể thiết lập. Điều đó chẳng khác nào như đặt câu hỏi khái niệm đói và no cái nào có trước cái nào có sau? Khái niệm đói và no chỉ có giá trị khi nào khái niệm thời giankhông gian đi liền với nó. Cũng vậy, khái niệm mẹ và con được hình thành chỉ khi nào trật tự về thời gian được xác định, nếu không, đứng về mặt sinh tử luân hồi thì ai là mẹ ai là con thật khó nói. Vô lý vì nghĩa tuyệt đối mà ta lại phủ nhận cái đạo lý mẹ con hay sao?

Cũng vậy, ý nghĩa về con gà sinh ra cái trứng hay cái trứng nở ra con gà’ nó chỉ có giá trị nhận thức khi nào trật tự thời giankhông gian được đi cùng. Ví dụ tháng trước tôi thấy tại nhà ông A con gà sinh ra cái trứng. Tôi được quyền nói như vậy. Nhưng một tháng sau người khác lại thấy tại nhà ông B cái trứng nở ra con gà. Người ta cũng được quyền phát biểu theo sự thấy của mình. Phát biểu như vậy không sai, vì khái niệm thời giankhông gian rất cụ thểrõ ràng.

Nhự vậy, một cách tương đối mà nói, khái niệm thời giankhông gian là thước đo để truy tìm giá trị tương đối của sự vật, nó là cái tiêu chuẩn tương đối để thiết lập mọi nguyên tắc họat động xã hội, ngay cả luân lý đạo đức.

Đề cập đến khái niệm thời giankhông gian là đề cập đến bộ môn sử học. Bộ môn này chuyên khảo sát mối quan hệ giữa thời giankhông gian. Nói một cách dễ hiểu hơn, khi nghiên cứu hay tìm hiểu một vấn đề nào, điều kiện cơ bản cần phải xác định địa điểm và thời gian phát sinh ra nó. Mức độ xác định thời giankhông gian càng rõ chừng nào thì đối tượng nghiên cứu càng rõ ràng và đúng chừng ấy. Vì bất cứ sự kiện nào phát sinh cũng phát sinh trong một bối cảnh cụ thể, chúng có mối quan hệ và tương tác lẫn nhau. Do vậy, thời giankhông gian của vấn đề càng rõ thì đối tượng nghiên cứu càng chuẩn xác hơn.

Tác phẩm “Những Hộ Pháp Vương của Phật giáo tại Ấn độ” của Bác sĩ Trần Trúc Lâm, là một tuyển tập bao gồm những bài nghiên cứu của tác giả, chuyên khảo cứu những chủ đề quan trọng mang tính lịch sử của Phật giáoẤn Độ. Ví dụ khảo cứu các bia ký của nhà vua Asoka là một trong những vấn đề hết sức quan trọng trong việc tìm hiểuđánh giá nhà vua, cũng như sự phát triển Phật giáoẤn Độ. Bài viết đã đã tập trung nghiên cứu về các bia đá này, khi giới thiệu về nhà vua Asoka, là việc làm hết sức cần thiết và nghiêm túc. Đây là một ví dụ mang tính điển hình, các bài nghiên cứu khác trong tác phẩm này, tác giả cũng làm việc theo tinh thần như vậy.

Tôi đã đọc qua bản thảo của tác phẩm “Những Hộ Pháp Vương của Phật giáo tại Ấn độ” của tác giả BS Trần Trúc Lâm, là tác phẩm bao gồm những bài viết có giá trị học thuật cao, mang tính nghiên cứu hơn là một tác phẩm mang tính tiểu thuyết. Nếu như cuốn tiểu thuyết hay làm cho trái tim độc giả ngất ngây phập phồng hồi hộp, thì công trình nghiên cứu này của BS Trần Trúc Lâm được trình bày trong tác phẩm này, làm cho người nghiên cứu sử lắm điều thú vị, học hỏi nhiều điều từ tác phẩm này. Tác giả tập trung trình bày vấn đề niên đại, cũng như những sự kiện phát sinh chung quanh, và tái hiện bối cảnh lịch sử của nó. Điều đó giúp cho người đọc nhận thứchệ thống và logic hơn, góp phần làm giảm đi cách suy tư tùy tiện, thiếu cơ sở, dẫn đến lời phê bình hay đánh giá mang tính cảm tình hay chủ quanchúng ta thường gặp. Ở đây, tôi không có ý định bình luận vấn đề tính đúng sai của tác phẩm, vì các sự kiện xảy ra trong thời cổ đại và các chứng liệu khảo cổ và sử học vẫn còn tranh cãi, vấn đề này xin nhường lại cho các nhà nghiên cứuhọc giả, ở đây tôi chỉ tán đồng và nhấn mạnh thái độ nghiên cứu nghiêm túc và phương pháp nghiên cứu hợp lý của tác giả.

Như tôi đã nói, tác phẩm này là công trình nghiên cứu mang tính khoa học, nhưng nó có thể giúp cho các nhà nghiên cứu về Phật giáo tìm hiểu thêm về lịch sử Phật giáo, cho thấy giáo lý của đức Thích Ca Mâu Ni rất gần gũi với đời thường và đã trải qua bao thăng trầm lịch sử. Tôi mong quí vị độc giả đọc tác phẩm này trong tinh thần ‘Uống nước nhớ nguồn’ để cảm nhận công đức to lớn của biết bao bậc cao đức, A la hán, cả những vua chúa là những vị hộ pháp, tín đồ đã gìn giữlưu truyền Phật pháp cho hậu thế, qua hơn 2500 năm lịch sử; đọc để biết và trân quí những tấm gương hy sinh cao cả của các đại sư chiêm bái trong việc truyền bá chánh pháp; đọc để cảm thấy gần gũi với cổ nhân. Tôi nghĩ tác giả không vì thương mại mà viết, ngược lại vì lý tưởng: phụng sự đạo pháp, phụng sự cho dân tộc, cộng thêm tính tò mò của một người quen làm việc khoa học, muốn tìm hiểu những vấn đề của Phật giáo trong quá khứ, viết lên những đắng đo suy nghĩ của mình.

Theo tôi, tác phẩm này có thể giá trị về kinh tế giới hạn, nhưng tôi tin rằng giá trị về học thuật khá cao. Nó mang tính gợi ý, giúp cho người làm công việc nghiên cứu Phật giáo Ấn Độ có thêm tư liệu, và có cái nhìn chuẩn xác hơn.

Tôi xin trân trọng giới thiệu tác phẩm này đến độc giả trong và ngoài nước. Tôi tin tưởng rằng, người nghiên cứu sẽ cảm thấy hài lòng với tác phẩm này.

Nơi đây, tôi cũng xin cám ơn Bác sĩ đã cống hiến cho Phật giáo nói chung, Phật giáo Việt Nam nói riêng một tác phẩmgiá trị học thuật.

Sài gòn ngày 16 tháng 7 năm 2007

Tỳ Kheo Thích Hạnh Bình

Giáo sư, Phật học Viện Viên Quang, Taiwan.

Mời Xem nội dung sách


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1384)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1292)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1347)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
(Xem: 1579)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
(Xem: 1719)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1679)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 1070)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1552)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1549)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1731)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 2008)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1615)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1431)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1443)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1625)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1211)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1333)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1341)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1739)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1695)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 3094)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1878)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1417)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1257)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1340)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1462)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1357)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1957)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1735)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1940)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1869)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2435)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1827)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2189)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2302)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2362)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1893)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 2022)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 2079)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 2021)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 2648)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1992)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1942)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1995)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1956)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2218)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2367)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 2060)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2179)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1940)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1975)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2470)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2377)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 4122)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2538)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3265)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2514)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2095)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1837)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant