Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

8. Dưới ánh sáng của cái chết

08 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 12383)
8. Dưới ánh sáng của cái chết

DƯỚI ÁNH SÁNG 

CỦA CÁI CHẾT

Rich Fields, một nhà thơ, nhà văn, đệ tử của Hòa thượng Chogyạm Trungpa Rinpoche và nhiều bậc thầy nổi tiếng người Tây Tạng, ông được ghi nhận là mắc bệnh ung thư phổi từ năm 1995. Hiện nay ông đang giữ chức Tổng biên tập tạp chí Yoga và Phó tổng biên tập nguyệt san Phật giáo Tricyle (xuất bản tại Hoa Kỳ). Ông đang cư ngụ tại Fairfax, bang California với người săn sóc là bà Marcia Cohen. Ông là tác giả của nhiều quyển sách Phật giáogiá trị như "Làm sao những con thiên nga đến được cái hồ, Lịch sử Phật giáo nước Mỹ...". Cuộc phỏng vấn này do đạo hữu Helen Tworkov (Tổng biên tập tờ Tricyle) thực hiện vào tháng 5 năm 1997 để tìm hiểu quan điểm về cái chết của ông. 

Tricycle : Lần đầu tiên khi biết mình ung thư, ông đã làm gì ? 

Fields : Vào tối hôm ấy, một vị Lama cho tôi một lời dạy của đức Phật Dược Sư (Medicine Buddha) và tôi cảm thấy an ủi. Tôi xem căn bệnh nan y này là một cơ hội tốt để tôi trả nghiệp. Đó là một trong những Bồ tát hạnh mà bạn phải thực hành. Quan điểm này rất khác biệt so với quan điểm của phương Tây. Quan điểm của Bồ tát làm đảo lộn hết mọi thứ xung quanh nó. Đây là một pháp môn luyện tập của Kim Cương thừa, chấp nhận bất cứ mọi hoàn cảnh khó khăn nào và phải đưa nó vào con đường tu tập, không cứ là hoàn cảnh tốt mà bất cứ một tình huống nào cũng biến nó trở thành phương tiện để tu luyện. Bạn có thể mong rằng "chứng bệnh này giúp tôi mang lấy hết bệnh của tất cả chúng sinh, nhận lấy hết đau đớn của chúng sinh, để cho họ khỏi bệnh và đau đớn". Bằng cách này, bạn tấn công vào "bạn ngã tự thương xót lấy mình" và nhiều vấn đề cơ bản khác phát sinh khi chúng ta mắc bệnh, chẳng hạn như chúng ta tự hỏi "tại sao tôi... ?". 

Tricycle : Các bậc thầy của ông đã nói gì ? 

Fields : Câu nói đầu tiên của họ luôn luôn là : "Mọi người đều phải chết. Chết là một sự thật". Hoặc "Chúng ta có thể điều trị bệnh này và con sẽ khỏi thôi". Hay "Ổ, con chờ đợi cái gì nào ? Có sanh ắt phải có tử". Rồi một ý kiến khác "Con may mắn vì nó là một cơ hội tốt cho việc tu luyện của con". 

Tricycle : May mắn, bởi vì ông là một hành giả tu luyện

Fields : May mắn là vì có thời gian để chuẩn bị mọi thứ, dù bạn là một hành giả hoặc không. Quan điểm thông thường ở phương Tây là "Ổ, may mắn là vì họ đã chết trong lúc ngủ hay chết vì cơn đau tim hoặc chết đột ngột". Tuy nhiên, bệnh ung thư là đặc biệt tốt cho bạn, bởi vì bạn có đủ thời gian để tiên liệu mọi việcgiải quyết nó. Về việc tu tập thì theo lời dạy của thầy Trungpa Rinpoche rằng : "Chết là sự thật, nó đến mà không báo trước. Thân này sẽ trở thành một xác chết". Chết chỉ là một phần trong đời sống của chúng ta. Nền văn hóa của phương Tây giúp đỡ chúng ta phớt lờ với cái chết, nhưng phương Đông thì phải nhìn thẳng vào cái chết, từ một quan điểm ấy, một căn bệnh ở vào giai đoạn chót rất có thể hữu ích cho việc tu tập tâm linh

Tricycle : Những ý kiến "nó tốt cho việc tu tập của bạn" có quấy rầy ông không? 

Fields : Ở những trung tâm tu học điều đó thường được xem là chuyện đùa. Đối với một người chưa có kinh nghiệm thì điều đó thật phiền hà, họ lập tức phản kháng, đầu hàng hay chấp nhận. Còn đối với tôi thì không. 

Tricycle : Ông quan tâm đến việc tiên đoán sự phát triển của căn bệnh không ? 

Fields : Không, quan điểm của tôi là "Tôi sẽ sống cho đến lúc chết", một việc mà tất cả mọi người đều có thể làm. Tôi không hiểu hết giá trị của những câu nói mà mọi người thường nói rằng : "Anh còn bốn tháng nữa để sống". Và tôi không muốn tạo ra bất cứ một gánh nặng nào cho ai. Tôi không bao giờ quan tâm đến những lời nói may mắn

Tricycle : Ông sẽ chọn giải pháp nào giữa việc chấp nhận cái chết và cố gắng điều trị căn bệnh ở đoạn cuối ? 

Fields : Chúng ta có quyền chọn lựa sao ? Cuối cùng tất cả chúng ta đều phải chết. Chết là sự thật, nó đến mà không cần báo trước, và thân này sẽ trở thành cái xác. Phật giáo luôn luôn kiên định về vấn đề này. Những bác sĩ đầu tiên nói với tôi rằng số lượng thống kê bệnh ung thư phổi giống như tôi đều không có cơ may chữa khỏi. Tôi đã từng nói với các bác sĩ, tôi không quan tâm đến việc nghe họ. Tôi sẽ sống cho đến khi tôi chết dù bốn tháng hay năm năm. Các bái sĩ cũng như thế, họ cũng sống cho đến lúc chết. Ông ta biết khi nào tôi chết nhưng ông ta thì không biết khi nào đến lượt mình. Nếu tôi chống lại cái chết, có thể tôi sẽ chết sớm hơn. 

Tricycle : Khi ông chống lại bệnh ung thư, nó có trở nên là một cái gì đó phân ly giữa nó và ông không ? 

Fields : Trước hết, tôi cảm thấy nó giống như một cái gì đó đã tấn công tôi. Dĩ nhiên, các tế bào tôi đã bảo vệ tôi. Những phản ứng đầu tiên của tôi là xác định mình là một chiến binh đầy sức mạnh. Tôi phải chiến đấu. Sau đó, có một lần chữa bằng hóa trị, tôi dùng Mật Chúquán niệm thần Phẫn nộ để tiêu diệt các tế bào ung thư trong thời gian hóa trị. 

Tricycle : Việc công phu tu tập của ông có thay đổi khi ông được chẩn đoán không ? 

Fields : Công việc tu tập của tôi càng trở nên tích cực. Tôi thấy có kết quả rõ ràng hơn trong một thời gian ngắn so với những thành tựu thiền định mà tôi phải bỏ ra trong một thời gian dài như trước đây. 

Tricycle : Ông có bắt đầu dành nhiều thời gian cho công phu buổi sáng không ? 

Fields : Có, tôi vẫn công phu như mỗi ngày. Tôi cảm thấy không có vấn đề là tôi ngồi bao lâu hoặc có liên hệ đến chỗ ngồi. Việc hành trì của tôi vẫn không thay đổi. 

Tricycle : Nó có ảnh hưởng đến cách cư xử của ông không ? 

Fields : Có thể. Tuy nhiên tôi vẫn có những thói quen thông thường. Tôi vẫn làm việc như mọi ngày, vẫn giữ các mối quan hệ, vẫn viết bài và tôi vẫn sống. Đôi khi tôi nghĩ mình nên gia nhập vào một trại tu dưỡng và tôi nỗ lực tu tập để đắc đạo trước khi chết (cười lớn). Nhưng đồng thời tôi thích chờ đợi từng phút giây, bình an và chiến đấu để sống một cách trọn vẹn, và đó là những gì mà tôi chọn. 

Tricycle : Ông có tự thương hại mình không ? 

Fields : Tôi nghĩ tự thương hại mình là đi cùng với bản ngã. Khi điều này xảy ra lần đầu tiên, nó mong muốn tất cả những nghiệp của tôi đến đậu đúng trên chóp mũi của tôi, nhìn thẳng vào mắt tôi, liếc nhìn tôi và tôi bắt đầu liếc nó trở lại. Đó là bộ mặt của một chiến binh. Sau đó, tôi được chẩn đoán. Allen Ginsberg gọi điện và nhắc cho tôi nhớ lời của thầy Trungpa Rinpoche đã nói với Billy Burroughs, một người sống nhờ ghép bộ phận gan mới. Rinpoche nói rằng : "Con sẽ sống hoặc sẽ chết, cả hai cái đều tốt cả". Tôi không muốn cái chết của tôi là một kẻ đối đầu. Chết không phải là một kẻ thù. Chết là một phần trong đời sống của chúng ta. Ung thư có thể xem nhu là kẻ thù. Nhưng chính cái chết tự nó đến và đến bất cứ lúc nào, nó không phải là một kẻ thù. Đó là cái đã được chấp nhận và đó là thế đứng của một chiến binh. Đối với một chiến binh, chết không phải là kẻ thù. Khi các sĩ quan đội quân cảm tử của Nhật Bản ra chiến trận, họ thường được lãnh tiền thưởng cảm tử. Nếu bạn bước vào chiến trận với sự can đảm không sợ hãi và biết rằng cái chết có khả năng xảy ra, thì bạn sẽ chiến đấu giỏi hơn và bạn sẽ chiến thắng ! Nhiều pháp môn tu tập của Phật giáo nói chung là nhắm vào việc loại bỏ sự sợ hãi về cái chết, một loại sợ hãi về cái sinh hay sợ hãi về cuộc sống của chúng ta

Tricycle : Ông đã chẩn đoán biết mình đang bệnh ung thư còn tôi thì không. Có sự khác biệt nào giữa chúng ta ? Có phải ông hấp hối trước tôi ? Có phải tình cảnh của ông có thức tỉnh về cái chết trong khi tôi vẫn ở trong vòng ảo tưởng là tôi sẽ sống mãi ? 

Fields : Không phải là bạn sẽ sống mãi mãi. Những sự tính toán thời gian có hơi khác biệt. Tôi được nói rằng tôi đang ở trong cơn nguy cấp. Sự lựa chọn thời gian chính xác là một vấn đề. Nhưng tôi nói với một bác sĩ ở Stanford về ý kiến thứ hai, tôi nói "Mọi người đều nói đây là bệnh không thể cứu chữa được", và ông ta nói "Có phải ai đó nói với anh là "không thể chữa được" ở giai đoạn cuối phải không ?". Và tôi trả lời : "Không có ai đề cập đến việc đó cả". Có nhiều căn bệnh không thể chữa được hoặc mãn tính, nhưng có thể xoay xởcứu vãn được ở giai đoạn chót. Tôi đang sống với thời kỳ thay đổi thường xuyên. Hiện nay tôi đang ở trong tình trạng thuyên giảm. Bệnh ung thư giống như một con tê giác (Rhi-noceros) bề ngoài của nó trông rất xấu xí, đôi mắt nhỏ, làn da sần sùi, ruồi bu xung quanh, trông giống như một con kỳ lân hung dữ ; và đó là con tê giác hiền lành, đang nhai cỏ trong đầm lầy, không chú ý đến bạn, bạn cảm thấy thuyên giảm và khỏe mạnh. Nhưng vào lúc nào đó, con tê giác nhìn quanh quẩn, chạy như điên đến chỗ bạn... Sự khác biệt ở đây là tôi luôn có một con tê giác ở xung quanh

Tricycle : Ông tin điều gì sẽ xảy ra sau khi chết

Fields : Tôi không biết. Tôi nghĩ tôi cảm thấy thoải mái với một người theo thuyết bất khả tri, có xảy ra hoặc không xảy ra cũng vậy thôi. Và tôi nghĩ là tôi đồng ý với những gì mà cư sĩ Stephen Batchelor nói với mọi người có lý khi tu tập để có một nơi tái sinh tốt, đó không phải là kinh nghiệm của tôi. Tôi tu luyện tâm linh để có đời sống hiện tại tốt hơn, an vui hơn... Và nếu kết quả tu tập giúp tôi trong đời sống này thì tôi chắc rằng nó cũng giúp tôi lúc tôi chết, vì chết là một phần của đời sống

Tricycle : Ông muốn an táng thi thể của mình như thế nào ? 

Fields : Tôi muốn nghe ý kiến của bạn trước. 

Tricycle : Tôi muốn theo phương pháp "không táng" (sky burial) ở Nova Scotia. Đặt thi hài trên vùng St. Lawrence để làm thức ăn cho chim đại bàng, quạ, chó sói và côn trùng. Dĩ nhiên điều này bất hợp pháp, nhưng đó là sở thích của tôi. 

Fields : Tôi cũng thích kiểu "không táng" này, tuy nhiên hỏa táng (cremation) thì dường như là một sự lựa chọn tốt hơn. Nhưng phải là hỏa táng theo kiểu của người Ấn Độ, đặt thi thể lên đống củi để thiêu. Ý kiến của tôi bị ảnh hưởng bởi lời dạy của thầy Trungpa Rinpoche là không di chuyển thể xác chỗ khác trong 3 ngày đầu, bởi vì cần có đủ thời gian để cho thần thức rời khỏi xác thân hoàn toàn. Lý tưởng nhất là đặt thể xác trong chánh điện rồi đắp chiếc mền lên, để cho mọi người nhìn thấy, chiêm nghiệm hoặc để quán tưởng tử thi, và rồi có một buổi lễ đặc biệt được thực hiện. Nếu có một người nào đó đến làm phép chuyển đi tâm thức thì thật là tuyệt vời. Tôi nghĩ thật là tốt biết bao cho mọi người có một buổi tiệc vào ngày ấy. Nói chung, một lần nữa, tôi thích hỏa táng ngoài trời theo kiểu của người Ấn. 

Tricycle : Ông có thể khuyên điều gì cho những người có hoàn cảnh tương tự như ông ? 

Fields : Tôi là nhân vật trung tâm của cuộc nói chuyện này, mọi người có thể tìm thấy những điều hữu ích cho bản thân mình về sự lựa chọn phương pháp điều trị theo y học truyền thống. Trong một số truyền thống tâm linh, có một quan điểm cho rằng mọi việc đều xuất phát từ tâm, cho nên mọi căn bệnh cũng phải được chữa trị từ tâm hay bằng cách luyện tập tâm linh, tư duy tích cực hoặc có niềm tin. Có người nói rằng cả thân và tâm đều có sự ảnh hưởng lẫn nhau. Nhưng một số người khác thì cho rằng chỉ quan tâm đến việc điều trị bằng y khoa, kinh nghiệm của tôi là chữa trị bằng thuốc Tây, bằng phương pháp xạ và hóa trị, nếu điều trị đúng cách đúng lúc thì sẽ có kết quả tốt, thậm chí có một số người chữa trị bằng độc dược nữa. Nói chung, theo tôi người bệnh phải theo dõikiểm tra thường xuyên căn bệnh của mình rồi chọn lựa phương pháp điều trị. Tôi thấy một số người đã chết vì bị hỗn loạn giữa các lối điều trị

Tricycle : Vai trò của người chăm sóc bệnh như thế nào ? 

Fields : Tôi thấy người săn sóc gặp khó khăn nhiều hơn người bị ung thư. Sức chịu đựng của họ còn nhiều hơn người bệnh. Tôi may mắn có được Marcia săn sóc. Cô ấy phát nguyện giúp đỡ tôi trong thời gian điều trị này. Cô ấy cùng tôi đi bác sĩ, ghi chép, hỏi han và chuẩn bị mọi thứ cho cuộc giải phẫu phức tạp. Giúp đỡ một người chống lại ung thư thật sự là một điều khó khăn thử thách

Tricycle : Ông có quan tâm đến việc chẩn đoán bệnh không ? 

Fields : Lại đề cập đến vấn đề này một lần nữa. Thừa là không tốt. Một trăm phần trăm là tôi sẽ chết. Nhưng tôi sẽ sống cho đến khi tôi chết. Có một điều tôi muốn nói ở đây là giáo pháp của đạo Phật rất tuyệt vời ở phần đầu, phần giữa và phần cuối, mọi người nên cầu học và tu tập trước khi quá trễ.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1389)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1300)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1362)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
(Xem: 1589)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
(Xem: 1724)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1683)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 1082)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1575)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1556)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1737)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 2014)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1624)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1439)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1446)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1628)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1216)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1336)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1345)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1745)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1699)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 3111)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1887)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1426)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1261)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1347)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1465)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1363)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1959)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1741)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1944)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1880)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2445)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1831)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2197)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2309)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2374)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1905)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 2028)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 2091)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 2025)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 2656)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1993)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1948)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 2000)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1966)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2222)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2374)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 2068)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2187)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1947)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1985)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2475)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2387)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 4142)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2545)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3282)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2531)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2103)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1841)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant