Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

A. Ngài Đàm Loantư tưởng Tịnh Độ

16 Tháng Bảy 201200:00(Xem: 12438)
A. Ngài Đàm Loan và tư tưởng Tịnh Độ
TƯ TƯỞNG TỊNH ĐỘ TÔNG

HT Thích Như Điển biên soạn


III. TỊNH ĐỘ TÔNG CỦA TRUNG HOA

Nếu hỏi rằng: Trên thế giới nầy nước nào có lịch sử lâu đời nhất, thì ắt hẳn người ta sẽ nói: Ấn Độ và Trung Hoa và nếu hỏi tiếp rằng: Đạo nào có mặt lâu đời nhất trên hành tinh nầy, thì cũng sẽ được trả lời là: Ấn Độ giáo của Ấn ĐộKhổng giáo, Lão giáo của Trung Hoa. Nhưng khi được hỏi rằng: Đạo nào có đông số tín đồ nhất, thì không phải là những đạo vừa nêu trên, mà là Thiên Chúa giáo; một Tôn giáo xuất hiện sau Phật giáo cả hơn 6 thế kỷ, mà ngày nay số lượng tín đồ của Tôn giáo nầy là một tỷ rưỡi người theo đạo trong số 7 tỷ người hiện có mặt trên quả địa cầu nầy.

Nếu hỏi rằng: Tôn giáo nào xuất hiện lâu đời và theo thứ tự thời gian ở trên quả đất nầy thì xin trả lời rằng: Ấn Độ giáo, Khổng giáo, Lão giáo, Phật giáo, Thiên Chúa giáo (gồm có cả Do Thái giáo, Thiên Chúa giáo, Chính Thống giáo, Tin Lành giáo) và Hồi giáo. Có những Tôn giáo xuất hiện đã 5.000 năm trên quả địa cầu nầy như Ấn Độ giáo; nhưng cũng có Tôn giáo chỉ mới xuất hiện hơn 1.500 năm nay, như Hồi giáo. Nhưng nếu sắp theo thứ tự người theo thì phải kể rằng: Thiên Chúa giáo, Ấn Độ giáo, Hồi giáo, Phật giáo, Khổng giáoLão giáo.

Trong những Tôn giáo nầy có nhiều Tôn giáo đã vượt ra khỏi ranh giới của quốc gia mà vị Giáo chủ ấy được sinh ra để mang lời dạy ra truyền bá ở nước ngoài như: Phật giáo, Thiên Chúa giáo, Hồi giáo. Trong khi đó cũng có những Tôn giáo không thể vượt khỏi biên giới quê hương của mình để đi sâu vào sinh hoạt của các nước Âu Mỹ như: Ấn Độ giáo, Khổng giáoLão giáo.

Câu hỏi được đặt ra tại sao thì có nhiều cách trả lời khác nhau; nhưng vấn đề quan trọng ở đây là lời dạy của các vị giáo chủ ấy có còn có giá trị qua thời giankhông gian hay không? Nếu có, thì Đạo ấy sẽ phát triển vững mạnh, không luận thời gian, năm tháng hay biên ải quốc gia. Một Tôn giáo phải hội đủ 3 điều kiện. Đó là: Giáo chủ, giáo lýgiáo hội. Giáo chủgiáo lý chúng ta đã rõ; nhưng giáo hội gồm Tăng Ni, Tín Đồ đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong vấn đề giữ gìn và phát triển mạng mạch của Tôn giáo đó. Nếu không có những người nầy, quả thật Tôn giáo đó sẽ hiu quạnh, không như thời điểm vàng son, lúc còn vị giáo chủ nữa.

Ngày xưa vấn đề giao thông không tiện lợi như ngày nay; nên một văn thư, một tin tức đánh đi từ một nơi, đến một nơi khác nhận được, đôi khi phải trải qua hằng tháng, hằng năm; chứ không phải từng phút, giây như giai đoạn trong hiện tại (năm 2011) mà chúng ta đang có được. Bởi vậy những gì mà người xưa làm được, quả là đáng quý biết dường bao!

Khi Thái Tử Tất Đạt Đa sinh ra tại Ấn Độ, Khổng Tử ở Trung Hoa, ông ta đã nói với học trò của mình rằng: “Ông cảm như quả đất đang chuyển động”, mà thật thế! một vĩ nhân, một bậc giác ngộ ra đời thì có không biết bao nhiêu là điềm lạ xuất hiện trong thế gian nầy. Vì các Ngài không phải là những người thường.

Thế mà đã hơn 600 năm trôi qua, đến năm Hán Minh Đế (58-75) vào thế kỷ thứ nhất sau Tây lịch; người mới nằm mộng thấy Phật vàng và từ đó mới cho người qua Ấn Độ để thỉnh kinh. Đây là thời kỳ đầu của Phật Giáo mới hình thành và đã nhập vào Trung Quốc.

“Theo sách Hán Pháp” bản nội truyện là một tác phẩm gồm 5 quyển, được soạn vào thời nào và tên soạn giả là ai đều không rõ; nhưng sách nầy nói về việc Phật Giáo lúc mới du nhập Trung Quốc khoảng năm Vĩnh Bình (58-75) đời Minh Đế nhà Hậu Hán và về tình hình Phật Giáo chống đỡ sự phê phán của Đạo Giáo. Nội dung sách ấy gồm 5 phẩm như sau:

- Minh Đế đắc mộng cầu pháp

- Thỉnh Pháp Sư lập tự công đức

- Dữ Chư đạo sĩ tỉ giảo độ thoát

- Minh Đế Đại Thần đẳng xưng dương

- Quảng thông lưu bố.

 

Đến nay bản hoàn chỉnh của sách nầy vẫn không thấy lưu truyền, chỉ thấy rải rác trong Quảng Hoàng Minh tập quyển 1, tập cổ kim Phật Đạo luận hành quyển 1, Pháp Uyển Châu Lâm quyển 18, Tục tập cổ kim Phật Đạo luận hành v.v…

Các Ngài Đạo TuyênTrí Thăng cho rằng sách nầy là tác phẩm đời Hán Ngụy; nhưng trong các văn hiến từ đời Tùy trở về trước không thấy được đề cập tới. Nếu căn cứ vào nội dung mà phán đoán thì có thể sách nầy là tác phẩm từ khoảng năm Thiên Giám (502-519) đời nhà Lương thuộc Nam Triều trở về sau. (Trích Phật Quang Đại Từ Điển trang 2054). (Xem Luận Phá Tà quyển thượng; truyện Đàn Vô Tối trong Tục Cao Tăng truyện quyển 23; Thiền Tông phiên dịch chủ trong Phiên dịch danh nghĩa tập quyển 1).

Vào đầu thế kỷ thứ nhất sau Tây lịch Hán Minh Đế thuộc nhà Hậu Hán là người đầu tiên thấy được điềm lành; cho nên mới cho người sang Thiên Trúc để thỉnh kinh. Thuở ấy từ Kinh đô Lạc Dương đi qua Ấn Độ chỉ có con đường biển là bình an hơn; nhưng ít nhất cũng 3 tháng đến 1 năm mới tới nơi; nhưng đến rồi; nào ngôn ngữ, phong tục, ăn uống ở tại xứ Ấn Độ thuở bấy giờ chẳng phải là việc đơn thuần. Thế nhưng các nhà ngoại giao thuở ấy cũng đã mang về cho Triều đình nhà Hậu Hán hai vị Đại Pháp Sư và Đại dịch giả về sau nầy. Đó là hai Ngài Ma Đằng Ca Diếp và Ngài Trúc Pháp Lan. Bản kinh đầu tiên được truyền vào đất Trung Quốc năm 68 sau Tây lịch là kinh Tứ Thập Nhị chương đã được hai vị nầy dịch ra chữ Hán. Ngày nay nếu có ai đó đi sang Trung Quốc, đến Kinh đô Lạc Dương, ghé thăm chùa Bạch Mã sẽ gặp đuợc mộ tháp của hai Ngài vẫn còn chôn cất tại nơi đây và bản kinh nầy vẫn được Phật Giáo Trung Quốc cho khắc vào đá hoa cương cho công chúng chiêm ngưỡngđảnh lễ.

Trong sách trên có nói về việc thứ hai là nhà Vua và Triều đình đã thỉnh Pháp Sư lập tự công đức. Nghĩa là nhà vua muốn xây chùa để thờ Phật. Có lẽ hai vị Pháp Sư nầy đã chỉ cho nhà vua làm chùa như thế nào cũng như đặt hiệu chùa ra sao. Nên Bạch Mã là tên chùa đã được chọn. Vì đi thỉnh kinh cũng như đón rước kinh đến Kinh đô Lạc Dương đều do những con ngựa trắng quý hiếm đến đón về; nên lấy tên là Bạch Mã. Chùa ngày xưa có lối kiến trúc theo Ấn Độ; nghĩa là bên trên nóc là vòm, trông như những ngôi tháp tại Ấn Độ; chứ không lợp mái như kiểu của Trung Hoa. Vào cuối năm 2000 vừa qua giữa chính quyền Trung Hoa và Ấn Độ đã ký một văn bản quan trọng, nhằm tài trợ để xây một ngôi chùa to lớn tại đây theo kiểu cách của Ấn Độ để nhớ về cội nguồn cũng như lịch sử khởi nguyên Phật Giáo tại xứ nầy.

Điểm thứ ba là nhà Vua thích các vị Pháp Sư cùng với các vị Đạogiảng thuyết để so sánh. Thuở ấy Nho gia tại Trung Quốc không thích Phật Giáo. Lão Giáo tuy chấp nhận Phật Giáo; nhưng muốn biết cao thấp, nên nhà Vua đã cho quý Sư và Đạo Sĩ luận bàn với nhau. Nếu thuở ấy các vị Pháp Sư không thắng thì có lẽ Phật Giáo không được lưu hành và phát triển tại Trung Quốc suốt 2.000 năm qua.

Điểm thứ tư là Vua Hán Minh Đế cùng với các Đại Thần xưng dương, tán thán. Điều ấy có nghĩa là nhà Vua đã hài lòng và việc nằm mộng thấy Phật vàng, việc cho người đi Ấn Độ thỉnh kinh và rước Pháp Sư về là việc tốt cho quê hương đất nước Trung Quốc; nên nhà Vua và triều thần mới chấp nhận Phật Giáo một cách công khai như thế; trong khi tại Trung Hoa trước đó đã có Đạo Khổng và Đạo Lão rồi.

Việc cuối cùng là cho giáo lý từ bi, trí tuệ ấy tiếp tục truyền bá khắp nhân gian. Vì lẽ chính nhà Vua và các vị Đại Thần tai mình đã nghe, mắt mình đã thấy sự luận nghị và tư cách giữa các vị Pháp Sư Phật Giáo và các vị Đạo Sĩ của Lão Giáo. Kể từ đó trở đi Phật Giáo tại Trung Quốc đã trải qua bao đời với những phế hưng của lịch sử. Ví dụ như các vị Vua và Hoàng Hậu nào thích giáo lý của Đạo Phật thì ủng hộ hết mình; nên những chùa viện và chư Tăng đều có mặt khắp nơi tại quê hương rộng lớn nầy. Ví dụ như Triều Đường chẳng hạn. Nhưng cũng có nhiều lúc các vị quân vương nghe lời xiểm nịnh của triều Thần; hoặc giả chư Tăng Ni của Phật Giáo không còn gìn giữ được những phẩm hạnh thanh cao như lúc xa xưa nữa, thì lúc ấy các vua chúa sẽ phế Phật và chọn những Đạo khác, ví dụ như “Tam Vũ nhất Tông pháp nạn”; nghĩa là pháp nạn nầy do 3 ông vua họ tên Vũ và một ông tên Tông gây ra (tức là Thái Vũ đế nhà Bắc Ngụy, Vũ Đế nhà Bắc Chu; Vũ Tông nhà Đường và Thế Tông nhà Hậu Chu).


A.- Ngài Đàm LoanTư Tưởng Tịnh Độ

Theo Liên Tông (tức là Tịnh Độ Tông) của Trung Hoa lập Ngài Huệ Viễn làm Sơ Tổ Tịnh Độ tại đó và kế thừa Tông nầy cho đến đời nhà Thanh gồm 9 vị như sau:

- Sơ Tổ Đông Lâm Huệ ViễnLô Sơn

- Nhị Tổ Quang Minh Thiện ĐạoTrường An

- Tam Tổ Bất Chu Thừa ViễnHoành Sơn

- Tứ Tổ Vân Phong Pháp ChiếuHàng Châu

- Ngũ Tổ Ô Long Thiếu Khang ở Tân Định

- Lục Tổ Vĩnh Minh Diên ThọHàng Châu

- Thất Tổ Chiêu Khánh Tỉnh Thường ở Vũ Tam

- Bát Tổ Vân Thê Châu Hoành ở Cổ Hàng

- Cửu Tổ Phạm Thiên Tỉnh An ở Phương Sơn

(Xem Liên Tông Cửu Tổ truyện lược)

 

“Tuệ (Huệ) Viễn sinh năm 334 và tịch năm 416 là Cao Tăng Trung Quốc, sống vào đời Đông Tấn, người Lâu Phiền, Nhạn môn (huyện Quách, tỉnh Sơn Tây, họ Giả, là Sơ Tổ Tông Tịnh Độ Trung Quốc.

Năm 13 tuổi, Sư đi học ở các nơi như Hứa Xương, Lạc Dương v.v… Sư thông hiểu sâu rộng 6 kinh (Thi, Thư, Dịch, Lễ, Nhạc và Xuân Thu) và Lão Trang. Năm 21 tuổi Sư cùng em là Huệ Trì nghe Ngài Đạo An giảng kinh Bát Nhã ở Hằng Sơn, Thái Hàng (phía Tây Bắc ở Khúc Dương, tỉnh Hà Bắc), có chỗ lãnh ngộ, cảm động than rằng: “Nho, Đạo 9 phái đều là trấu cám” (chỉ chung cho 9 học phái thời chiến quốc như Nho gia, Đạo gia, Âm Dương gia…) liền cùng em lễ Ngài Đạo An xin xuất gia làm Đệ Tử.

Sư giỏi về học thuyết Tính Không của Bát Nhã năm 24 tuổi lên tòa giảng, thường dẫn sách Trang Tử để thuyết minh nghĩa thật tướng của Phật Giáo, khiến người có tâm nghi ngờ được hiểu rõ, Ngài Đạo An cho phéptiếp tục bàn về sách ngoài đời.

Năm Thái Nguyên thứ 6 (381) Sư đến Lô Sơn ở miền Nam truyền pháp, đệ tử rất đông. Sư tận lực nghiên cứu kinh điển, thường than thở ở Giang Đông kinh điển chưa được đầy đủ, Thiền Pháp chưa được nghe, Luật tạng thì thiếu sót, cho nên Sư sai các đệ tử Pháp Tịnh, Pháp Lãnh đi tìm cầu kinh điển về truyền dịch. Mỗi khi Sư gặp các vị Tam Tạng Tây Vực thì bùi ngùi thăm hỏi.

Năm Thái Nguyên thứ 16 (391), Sư thỉnh Ngài Tăng Già Đề Bà người nước Kế Tân phiên dịch luận A Tỳ Đàm tâm, luận Tam Pháp độ. Khi nghe tin Ngài Cưu Ma La Thập đến Quan Trung, Sư liền cho các vị đệ tử Đạo Sinh, Tuệ Quán, Đạo Ôn, Đàm, Dực… về Trường An xin theo học Đại Thừa Không Quán thuộc hệ thống Ngài Long Thọ; Sư cũng thường hay viết thư qua lại với Ngài Cưu Ma La Thập để thỉnh vấn và thảo luận về giáo lý. Khi Ngài Đàm Ma Lưu Chi đến Trung Quốc, Sư sai đệ tử Đàm Ung tham dự việc dịch luật Thập Tụng; đồng thời thỉnh Ngài Phật Đà Bạt Đà La từ Trường An đến Lô Sơn dịch kinh Đạt Ma Đa La Thiền. Cùng lúc với việc hoằng dương Bát Nhã học Đại Thừa, Sư cũng đề xướng Thiền Học Tiểu Thừa và có kiến giải rất sâu xa đối với vấn đề cải cách Phật Giáo Trung Quốc.

Niên hiệu Nguyên Hưng năm đầu (402) Sư cùng với hơn 100 đồng đạo như Cư sĩ Lưu Di Dân sáng lập Bạch Liên Xã, chuyên dùng Tịnh Độ niệm Phật làm Pháp môn tu hành, cùng nguyện vãng sanh Tịnh Độ Tây Phương, hơn 30 năm không một lần rời núi.

Năm Nguyên Hưng thứ 2 (403), phản thần Hoán Huyền, sau khi cướp ngôi vua An Đế nhà Đông Tấn và tự lập làm Vua, ra lệnh sa thải Sa Môn, buộc các Sa Môn phải hết lòng tôn kính nhà Vua, Sư liền soạn luận: “Sa Môn bất kính Vương giả” để phản đối, nói rõ việc người xuất gia không bị buộc phải khuất phục vương quyền.

Sư vừa thông hiểu Phật học, lại giỏi ngoại điển nên rất được người đương thời tôn trọngchư Tăng nước ngoài kính nể.

Chùa Đông Lâm ở Lô Sơntrung tâm của Phật Giáo miền Nam lúc bấy giờ, giống như Đạo Tràng dịch kinh của Ngài Cưu Ma La ThậpTrường Antrung tâm Phật Giáo miền Bắc vậy.

Năm Nghĩa Hưng thứ 12 (416) Sư thị tịch, thọ 83 tuổi.

Về sau các vua Đường, Tống ban tặng Sư các thụy hiệu: Biên Giáo Đại Sư, Chính Giác Đại Sư, Viên Ngộ Đại Sư, Đẳng Biếu Chính Giác Viên Ngộ Đại Sư. Và để phân biệt với Ngài Huệ Viễn chùa Tịnh Anh đời Tùy, người đời sau thường gọi Ngài là Lô Sơ Huệ Viễn.

Sư có các tác phẩm: Lô Sơn tập 10 quyển, Vấn Đại Thừa trung thâm nghĩa thập bát khoa (Đại Thừa đại nghĩa chương) 3 quyển, luận Minh báo ứng, luận Thích Tam Bảo, luận Biện Tâm thức, luận Sa Môn đản phục và Đại Trí Độ luận sao tự. (Trích Phật Quang Đại Từ Điển trang 6545-6546)

(Xem Lương Cao Tăng truyện quyển 6; Xuất Tam Tạng ký quyển 7; Đại Đường nội điển lục quyển 3; Quảng Hoằng Minh tập quyển 15, 17, 30; Pháp Uyển châu lâm quyển 100; Đông Lâm thập bát cao hiền truyện).

Đọc Tiểu Sử của Ngài Lô Sơn Huệ Viễn chúng ta có thể liên tưởng đến Ngài Long Thọ của Ấn Độ. Ngài Huệ Viễn chuyên về Bát NhãTrung Quán và cuối đời lập nên Bạch Liên Xã để hành trì theo pháp môn Tịnh Độphát nguyện vãng sanh về Tây Phương. Đối với Phật Giáo Trung Hoa và Tịnh Độ Tông tại đây hầu như đều công nhận Ngài là Sơ Tổ; nhưng có điều lạ lùng là Tịnh Độ Tông Nhật Bản do Ngài Pháp Nhiên và Ngài Thân Loan sáng lập vào thế kỷ thứ 13 thì chỉ công nhận Ngài Đàm Loan là Đệ tam Tổ Tịnh Độ Tông (kể từ Ngài Long ThọThế Thân), Ngài Đạo Xước, Ngài Thiện Đạo mới là Đệ nhị Tổ và Đệ tam Tổ của Tịnh Độ Tông Trung Quốc (Đệ tứ và Đệ ngũ Tổ thuộc về Tịnh Độ của Nhật Bản). Trong 9 vị Tổ của Liên Tông, chúng ta chỉ thấy có Ngài Thiện Đạo thành Đệ nhị Tổ sau Ngài Huệ Viễn. Có lẽ có một lý do gì quan trọng hơn; cho nên Phật Giáo Nhật Bản mới chọn như vậy chăng?

Ngay như học giả Christian Steineck người Đức, tác giả quyển “Những bản văn căn bản của Phật Giáo Di Đà Nhật Bản” cũng không công nhận Ngài Huệ ViễnSơ Tổ Tịnh Độ Tông Trung Hoa, mà trong sách nầy (bằng tiếng Đức) chỉ nêu lên 3 vị Tổ là Ngài Đàm Loan, Đạo XướcThiện Đạo.

Tiếp theo chúng ta nên tìm hiểu về Ngài Đàm Loan. “Ngài sanh năm 476 và thị tịch lúc nào không rõ. Là vị Cao Tăng của Tịnh Độ Tông ở thời Nam Bắc triều, người Nhạn Môn (huyện Đại, tỉnh Sơn Tây) có thuyết nói Sư là người Vấn Thủy Tinh Châu (Thái Nguyên, Sơn Tây) không rõ họ gì. Nhật Bản tôn SưSơ Tổ trong 5 vị Tổ của Tông Tịnh Độ (gồm: Đàm Loan, Đạo Xước, Thiện Đạo - Trung Hoa - và Nguyên Tín, Nguyên Không (Pháp Nhiên) - Nhật Bản), là Tổ thứ 3 trong 7 vị Tổ của Chân Tông.

Nhà Sư ở gần núi Ngũ Đài, Sư thường được nghe những chuyện thần tích kinh dị, nên lúc 10 tuổi Sư lên núi xin xuất gia. Sư rất chăm học, thông suốt các kinh. Sư đọc và chú giải kinh Đại Tập, công việc chưa xong, Sư bỗng lâm bệnh, chữa mãi không khỏi. Một hôm Sư chợt thấy cửa trời mở rộng, tự nhiên hết bịnh, liền phát tâm đi tìm cầu pháp trường sinh bất tử. Nghe đồn học phép tiên có thể sống lâu, Sư bèn đến Giang Nam thăm Đạo Sĩ Đào Hoằng Cảnh ở núi Cú Dung được họ Đào trao cho một bộ kinh Tiên 10 quyển.

Trên đường về Sư ghé qua Lạc Dương ra mắt Ngài Bồ Đề Lưu Chi, được Ngài trao cho bộ Quán Vô Lượng Thọ, Sư liền bỏ hết kinh Tiên, mà chuyên tu Tịnh Độ. Vua Hiếu Tĩnh nhà Đông Ngục tôn Sư là “Thần Loan” và ban Sắc chỉ cho Sư trụ trì chùa Đại Nham ở Tỉnh Châu.

Về sau, Sư trụ trì chùa Huyền Trung tại Phần Châu, Sư thường đến phía Bắc núi Giới Sơn giảng kinh, hoằng dương pháp môn niệm Phật. Sư tinh thông nội ngoại điển, Tăng NiPhật Tử rất kính phục, họ gọi Đạo Tràng giảng kinh của Sư là “Loan Công Nham”. Sư là người đặt nền tảng cho sự kiện toàn Tịnh Độ giáo ở đời Đường sau nầy.

Ngoài ra, Sư còn là học giả nổi tiếng thời bấy giờ về Tứ Luận (Trung Luận, Bách Luận, Thập Nhị Môn Luận, Đại Trí Độ Luận). Đời sau tôn Sư là Tổ của Tông Tứ Luận. Sư cũng là người kết hợp hai trào lưu tư tưởng lớn của Phật Giáo Ấn Độ nơi Tổ Long Thọ và Ngài Thế Thân, đem tư tưởng Không Tông dung hợp vào giáo nghĩa Tịnh Độ; được đời sau rất coi trọng.

Về năm Sư tịch thì có mấy thuyết; nhưng có thể đoán định là Sư tịch từ năm Thiên Bảo thứ 5 (554) trở về sau.

Sư có các trứ tác: Vãng Sanh luận chú 2 quyển, Tán A Di Đà Phật kệ, Lễ Tịnh Độ thập nhị kệ, Lược luận Tịnh Độ an lạc nghĩa”. (Trích Phật Quang Đại Từ Điển trang 1.589)

Ngài Đàm Loan sinh ra và thị tịch sau Ngài Huệ Viễn cả 142 năm (476-334=142). Do vậy giáo nghĩa của Tịnh Độ đã rất rõ ràng qua các thời đại và Ngài đã dựa theo tư tưởng Trung Luận của Ngài Long Thọtư tưởng Vãng Sanh Luận của Ngài Thế Thân. Có lẽ vì thế mà Tịnh Độ Tông của Nhật Bản đã chấp nhận Ngài là Đệ tam Tổ của Tịnh Độ Nhật Bản kể từ khi Tịnh Độ được truyền vào đây và là Sơ Tổ Tịnh Độ Tông của Trung Quốc.

Tịnh Độ Việt Nam chúng ta sẽ được đề cập đến ở một chương đặc biệt phía sau; nhưng chúng ta cũng có thể chọn Ngài Đàm Hoằng (? – 455) người cùng thời với Ngài Đàm Loan, để làm Sơ Tổ của Tịnh Độ Tông Việt Nam và là Đệ tam Tổ kể từ Ấn Độ (sau Ngài Long ThọThế Thân).

Sau đây chúng ta có thể tiếp tục tìm hiểu tư tưởng Tịnh Độ của Ngài Đàm Loan qua “Vãng Sanh luận chú” và những tư tưởng tiếp theo trong những bài kệ tán thán Đức Phật A Di Đà của Ngài.

“Vãng Sanh luận chú gọi đủ là: Vô Lượng Thọ kinh Ưu Ba Đề Xá nguyện sanh kệ - Bà Tẩu Bàn Đậu (Vasabandhu) Bồ Tát tạo tinh chú.

Cũng gọi là: Tịnh Độ luận chú, Vô Lượng Thọ Kinh luận chú, Vô Lượng Thọ kinh Ba Đề Xá nguyện sinh kệ chú. Gọi tắt là Luận chú, Chú luận.

Luận chú gồm 2 quyển, do Ngài Đàm Loan soạn vào đời Bắc Ngụy được thu vào Đại Chánh tạng tập 40.

Quyển thượng của sách nầy trước nêu phẩm Dị Hành trong luận Thập Trụ Tỳ Bà Thi của Ngài Long Thọ, nói rõ về Nan Hành đạo (đạo khó thực hành) và Dị hành đạo (đạo dễ thực hành). Luận nầy thuộc về Dị hành đạo, chỉ rõ pháp môn tha lực (nương nhờ vào sức của Đức Phật A Di Đà) cho rằng cái nhân chủ yếu được sanh về Tịnh Độhoàn toàn trông cậy vào năng lực bản nguyện của Đức Phật A Di Đà, kế là phần nói chung, lần lượt giải thích văn kệ phát nguyện vãng sanh, đồng thời lập ra 8 mục hỏi đáp, nói rõ căn cơ nguyện sanh Tịnh Độ và tất cả tướng phàm phu thiện ác.

Quyển hạ thì giải thích phần nghĩa bằng văn trường hàng (văn xuôi), lập ra 10 khoa giải thích văn nghĩa: nguyện kệ đại ý, khởi quán sanh tín, Quán hành thế tướng, Tịnh nhập nguyện tâm, Thiện xảo nhiếp hóa, Ly Bồ Đề chương, Thuận Bồ Đề môn, Danh nghĩa nhiếp đối, Nguyện sự thành tựuLợi hành mãn túc; đồng thời ở cuối khoa Lợi hành mãn túc, nên rõ ý nghĩa quan trọng của việc lợi mình lợi người, trích dẫn các nguyện thứ 11, 18 và 22 trong 48 lời nguyện của Kinh Vô Lượng Thọ để chứng minh cho Tăng Thượng Duyên của tha lực”. (Trích Phật Quang Đại Từ Điển trang 7.056-7.057).

(Xem Lịch Đại Tam Bảo ký quyển 4, Pháp linh lục quyển 6; Đông Vực truyền đăng lục quyển hạ).

Xem ra như vậy các học giả người Nhật và người Tây Phương hữu lý hơn, khi chọn Ngài Đàm Loan làm Sơ Tổ Tịnh Độ của Trung Hoa mà họ hoàn toàn không nhắc đến Ngài Huệ Viễn. Vì lẽ họ nhận chân ra được rằng: Những gì mà Ngài Đàm Loan thực hiện pháp môn Niệm Phật là thuộc về phần Dị Hành như trong Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận của Ngài Long Thọ chủ trương và Vãng Sanh Luận Chú nầy là Ngài chú thích lại luận đã có sẵn của Ngài Thế Thân. Hai vị nầy được xem như là Đệ nhất và Đệ nhị Tổ Tịnh Độ Tông của Ấn Độ, Trung Hoa, Nhật BảnViệt Nam. Ở đây có lối truyền thừa trực tiếp. Tuy thời gian giữa các vị Tổ Tịnh Độ của Ấn Độ và Trung Hoa có cách xa hằng trăm năm đi nữa, thì vẫn không quan trọng so với vấn đề thời gian, mà vấn đề quan trọng là tư tưởng của Tịnh Độ và việc tiếp nhận tư tưởng ấy.

Thiền Tông truyền thừa từ Ấn Độ (gồm 28 vị Tổ) qua Trung Hoa (6 vị Tổ) có tính cách “lấy tâm truyền tâm”; nghĩa là trực tiếp từ Thầy qua trò và vì thế có được tính cách liên tục theo thời gian. Nhưng Tông Thiền nầy cũng chia làm hai Tông chính. Đó là Thiền Tào ĐộngThiền Lâm Tế. Mỗi một môn phong truyền thừa của Thiền có tánh cách riêng.

Ở đây, riêng Tịnh Độ Tông, các vị Tổ hầu như không lập Tông Phái riêng, mà chỉ căn cứ vào 3 kinh căn bản của Tịnh Độ để tu học. Đó là Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Quán Vô Lượng ThọKinh A Di Đà. (Xin xem ở phần I bên trên). Đây là 3 bộ kinh quan trọng được truyền từ thời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cách đây 2555 năm về trước, cho đến thời hiện tại (2011) hầu như không có thay đổi gì nhiều qua vấn đề nương vào tha lực để vãng sanh. Tuy ở Nhật, quan điểm giữa Ngài Pháp Nhiên và Ngài Thân Loan có một ít sự khác nhau về việc vãng sanh; nhưng tựu chung vẫn là sự vãng sanh về thế giới Cực Lạc sau khi lâm chung và nương vào câu Phật hiệu “Nam Mô A Di Đà Phật”.

Quyển “Vãng Sanh Luận Chú” của Ngài Đàm Loan có hai phần. Phần đầu như đã được giải thích bên trên. Phần thứ hai, Ngài Đàm Loan dùng văn xuôi để giải thích rõ ràng về 10 việc khác nhau như:

- Đại ý của những bài kệ phát nguyện sanh về thế giới Tây Phương Cực Lạc.

- Khi quán tưởng cảnh giới Tây Phương Cực Lạc thì sanh ra tín tâm.

- Quán sát về việc thực hành câu Phật hiệuthể tướng của việc vãng sanh.

- Khi lời thệ nguyện đã được thâm nhập vào tâm của hành giả rồi, sẽ được thanh tịnh chuyển hóa.

- Đức Phật A Di Đà dùng các phương tiện để nhiếp hóa chúng sanh, sanh về thế giới của Ngài qua những lời nguyện.

- Nhằm lìa xa những chướng ngại nếu có, phát tâm Bồ Đề dõng mãnh để được sanh về Tây Phương.

- Điều quan trọng là sự phát tâm Bồ Đề ấy phải được thuận theo con đường giải thoát sanh tử luân hồi để được vãng sanh về Tây Phương Tịnh Độ.

- Cách niệm danh hiệu Phật phải nhiếp thủ trực tiếp để cầu sanh Tây Phương.

- Cầu nguyện cho việc phát tâm niệm Phật của mỗi chúng sanh nơi thế giới Ta Bà nầy được thành tựu viên mãn.

- Điều thứ 10 cũng là điều cuối cùng là việc niệm Phật ấy phải làm sao cho được lợi mình và lợi lạc cho người khác nữa; thì pháp môn Dị Hành ấy mới xứng đáng là pháp môn dễ thực hiện.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1535)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
(Xem: 1666)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1637)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 1041)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1519)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1501)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1679)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1947)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1538)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1363)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1374)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1562)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1152)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1274)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1290)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1699)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1651)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 3014)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1827)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1368)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1222)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1281)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1415)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1326)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1926)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1695)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1895)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1828)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2395)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1786)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2134)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2241)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2304)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1858)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1981)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 2037)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1960)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 2597)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1950)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1895)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1948)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1899)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2173)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2319)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 1990)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2101)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1889)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1916)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2424)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2329)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 4007)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2498)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3206)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2485)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2051)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1804)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3316)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2350)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 3035)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant