Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lễ Dâng Y Kathina

29 Tháng Mười 201200:00(Xem: 22325)
Lễ Dâng Y Kathina


LỄ DÂNG Y KATHINA

Tỳ khưu Hộ Pháp
(Dhammarakkhita Bhikkhu)

ledangykathina-hophap

Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa
Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, Đức Arahán, Đức Chánh Đẳng Giác ấy.

*

Lời Nói Đầu

Núi rừng Viên Không năm nay (Pl.2549), một lần nữa, người thí chủ là Cô Dhammanandā cùng thân quyến, bạn hữu xin làm Lễ Dâng Y Kathina đến chư Tỳ khưu Tăng đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa tại núi rừng Viên Không này.

Lần này, Cô Dhammanandā có lời thỉnh cầu bần sư biên soạn một quyển sách nhỏ giảng giải về tầm quan trọng của Lễ Dâng Y Kathina đến chư Tăng.

Nhân dịp này, bần sư xét thấy rằng: Lễ Dâng Y Kathina đến chư Tăng là một truyền thống của Phật giáo từ thời quá khứ xa xưa cho đến thời hiện tại này, đã trải qua từ các thế hệ người xưa mãi cho đến thế hệ của chúng ta bây giờ, và trở thành một truyền thống hằng năm trong các nước Phật giáo Nguyên Thủy Theravāda. Do đó, bần sư đã cố gắng sưu tầm từ Tam Tạng Pāḷi và Chú giải để biên soạn thành quyển sách nhỏ này, để cống hiến cho quý vị độc giả muốn tìm hiểu về Lễ Dâng Y Kathina đến chư Tăng:

- Xuất xứ của Lễ Dâng Y Kathina.

- Tính chất đặc biệt của Lễ Dâng Y Kathina đến chư Tăng.

- Nghi thức làm Lễ Dâng Y Kathina đến chư Tăng.

- Nghi thức chư Tỳ khưu Tăng thọ y Kathina.

- Phước thiện Lễ Dâng Y Kathina và quả báu của phước thiện ấy, v.v…

Đó là những vấn đề mà quý độc giả sẽ được hiểu biết được một phần nào qua quyển sách nhỏ này.

Thật ra, Lễ Dâng Y Kathina đến chư Tăng là một trong những pháp rộng lớn, có nhiều chi tiết nên biết, song quyển sách nhỏ này không thể nào đầy đủ được. Vả lại, khả năng của bần sư cũng có hạn, bần sư cố gắng sưu tầm được bao nhiêu, xin cống hiến đến quý độc giả bấy nhiêu!

Quý độc giả là bậc thiện trí, xem thấy có những điều gì sơ sót, thậm chí có chỗ nào sai, kính xin quý vị từ bi chỉ giáo cho bần sư biết, bần sư kính cẩn tiếp thu những lời chỉ giáo ấy để sửa chữa lại cho đúng.

Bần sư chân thành biết ơn quý vị.

Mùa an cư nhập hạ Pl. 2549
Núi rừng Viên Không,
Xã Tóc Tiên, huyện Tân Thành,
Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

 Tỳ khưu Hộ Pháp
(Dhammarakkhita Bhikkhu)

-ooOoo-

Lời Nói Đầu Lần Thứ Nhì

Năm 2006 Phật lịch 2550, lễ dâng y kathina tại Tổ đình Bửu Long, Quận 9, T.p Hồ Chí Minh do gia đình cô Thái Thị Ngọc Dung, pháp danh: Trí Đăng làm chủ lễ; và tại Thiền viện Viên Không, Tân Thành, Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu do gia gia đình cô tu nữ Hoàng Thị Nga, pháp danh: Vô Niệm làm chủ lễ. Cả 2 thí chủ chính này có tác ý thiện tâm muốn ấn hành quyển “Lễ Dâng Y Kathina” này để làm món quà Pháp Bảo kính dâng đến chư Tỳ khưu Tăng và kính biếu đến tất cả các bà con, bạn bè đồng thí chủ trong buổi lễ dâng y kathina tại Tổ đình Bửu Long và Thiền viện Viên Không.

Những thí chủ làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng trong mùa mưa vừa là một phước thiện vô lượng và rất hy hữu; lại còn thêm phần bố thí Pháp Bảo cao quý hơn các loại bố thí khác, cho nên bần sư vô cùng hoan hỷ cố gắng biên soạn lại quyển Dâng Y Kathina năm 2005, Phật lịch 2549 tại Thiền viện Viên Không.

Lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng sau khi đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa, là một truyền thống từ khi Đức Phật còn trên thế giantiếp tục hằng năm trên các nước Phật giáo Nguyên Thủy Theravāda cho đến ngày nay. Phước thiện của lễ dâng y kathina này rất lớn lao vô lượng và rất hy hữu. Để thành tựu được lễ dâng y kathina, người thí chủ cần phải có sự hiểu về tấm y gọi là “Y Kathina” và nghi thức làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng. Về phần chư Tỳ khưu Tăng cũng cần phải hiểu biết nghi thức làm lễ thọ y kathina của chư Tăng. Do đó, quyển sách “Lễ Dâng Y Kathina” này có thể giúp cho các thí chủ và chư Tỳ khưu về công việc dâng y kathina và thọ y kathina cho được thành tựu, để cho những thí chủ có được phước thiện vô lượng, đồng thời để cho chư Tỳ khưu Tăng có được quả báu của lễ thọ y kathina của chư Tăng được trọn vẹn.

1) Gia đình cô Thái Thị Ngọc Dung, pháp danh: Trí Đăng là người thí chủ chính làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng tại ngôi Tổ đình Bửu Long. Do nhờ phần phước thiện thanh cao này hộ trì cho toàn thể gia đình bà con thân bằng quyến thuộc của cô Thái Thị Ngọc Dung, nhất là Trần Trung Kính, Trần Thảo Mai, Mickey, Thompson, Billy Trần v.v... Cầu xin tất cả quý vị hoan hỷ phần phước thiện thanh cao này để cho thân tâm thường được an lạc, mọi công việc trong đời được thành tựu như ý, nhất là tiến hóa trong mọi thiện pháp, để tạo duyên lành trên con đường giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài. Và xin hồi hướng phần phước thiện thanh cao này đến thân bằng quyến thuộc nội ngoại hai bên từ kiếp hiện tại cho đến vô lượng kiếp trong quá khứ, nhất là thân phụ là ông Đào Văn Trà và thân mẫu là bà Thái Thị Em, pháp danh: Chiếu Nguyên v.v... Cầu mong tất cả quý vị hoan hỷ thọ nhận phần phước thiện thanh cao này để giải thoát mọi cảnh khổ, được an lạc lâu dài.

2) Gia đình cô tu nữ Hoàng Thị Nga, pháp danh: Vô Niệm là người thí chủ chính làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng tại ngôi Thiền viện Viên Không. Do nhờ phần phước thiện thanh cao này hộ trì cho toàn thể gia đình bà con thân bằng quyến thuộc của cô tu nữ Hoàng Thị Nga, nhất là Hoàng Văn Nút, Hoàng Minh Thái, Hoàng Thị Bạch Vân v.v... Cầu xin tất cả quý vị hoan hỷ phần phước thiện thanh cao này để cho thân tâm thường được an lạc, mọi công việc trong đời được thành tựu như ý, nhất là tiến hóa trong mọi thiện pháp, để tạo duyên lành trên con đường giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài. Và xin hồi hướng phần phước thiện thanh cao này đến thân bằng quyến thuộc nội ngoại hai bên từ kiếp hiện tại cho đến vô lượng kiếp trong quá khứ, nhất là là ông Hoàng Văn Tính và bà Nguyễn Thị Nhung, ông Trịnh Văn Lùng và bà Đoàn Thị Nhớn v.v... Cầu mong tất cả quý vị hoan hỷ thọ nhận phần phước thiện thanh cao này để giải thoát mọi cảnh khổ, được an lạc lâu dài.

Mùa an cư nhập hạ Pl. 2550 
Núi rừng Viên Không,
Xã Tóc Tiên, huyện Tân Thành,
Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

 Tỳ khưu Hộ Pháp
(Dhammarakkhita Bhikkhu)

Source: Buddhanet


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1353)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 1065)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1227)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1705)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1631)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1533)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 1115)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1499)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1451)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1370)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1424)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1758)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 2038)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1476)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 1131)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1469)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 2126)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1518)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1594)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1438)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2986)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1430)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1443)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1772)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1744)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1676)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1535)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2709)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1652)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1650)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1457)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1486)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1657)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1594)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1478)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1473)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1553)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2248)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1583)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1558)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1690)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1897)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1566)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1446)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1702)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1452)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1770)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2434)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1499)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 2011)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1730)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1792)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1659)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1987)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1715)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1481)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1752)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1612)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1588)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1371)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant