Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Quyền Lực Tâm Linh

16 Tháng Tư 201400:00(Xem: 9472)
Quyền Lực Tâm Linh


Quyền Lực Tâm Linh

mahatma-gandhi


Nhân loại tôn vinh Mahatma Gandhi (1869- 1948) là một trong mười thiên tài sáng tạo nhất trong lịch sử. Mahatma Gandhi là bậc thiên tài tâm linh, hòa hợp tâm hồn và thể xác. Một con người mạnh mẽ, rắn chắc luôn hoạt động cả trong suy nghĩ và hành động. “Chính chúng ta phải là sự thay đổi mà chúng ta muốn thấy trên thế giới”. Với tư tưởng đột phá ấy Mahatma Gandhi đã trở thành một thiên tài cách mạng tinh thần

Người có thể cho chúng ta nhiều lựa chọn. Gandhi - người đầu tiên tiến hành cuộc cách mạng chính trị thành công mà không cần tới vũ lực, đã thay đổi thế giới bằng sức mạnh mà ông gọi là “Quyền lực tâm linh”. Một sự kết hợp thú vị giữa đạo đức chính trực, sự phục tùng, lòng khoan dung, cầu nguyện, khả năng tự lực, tự thanh lọc và tình yêu. Từ đó chúng ta học được nhiều điều.


Bằng quyền lực tâm linh Gandhi giành được độc lập cho Ấn Độ từ tay thực dân Anh năm 1947. Chiến lược đối kháng thụ động hay phòng thủ không vũ lực chưa từng có trước đây của ông tôn vinh lý tưởng chân lý và bất bạo lực, thậm chí bao gồm cả khả năng yêu thương kẻ thù. Triết lý thiết thực và những cuộc biểu tình khôn khéo của Gandhi đã gây ảnh hưởng tới các nhà lãnh đạo vĩ đại như Martin Luther King, Nelson Mandela, Dalai Lama và nhiều người khác.

Là một nhà lãnh đạo phong trào bất bạo động, Martin Luther King (1929-1968) nhấn mạnh: “Gandhi có lẽ là người đầu tiên trong lịch sử nâng lòng kính Chúa lên trên sự tương tác giữa các cá nhân quyền lực và lực lượng xã hội trên một phạm vi rộng lớn.” Về con người cá nhân, Gandhi là một tấm gương cho tất cả những người đang tìm kiếm Tự Do trong tâm thứcSức Mạnh Tâm Linh trong cuộc sống thường ngày.

Gandhi sinh năm 1869 trong một gia đình thương nhân có tiếng nói chính trị lớn tại Porbandar - Ấn Độ. Gia đình theo Ấn Độ giáo nên Gandhi được học đạo từ nhỏ, thấm đẫm phẩm hạnh cao đẹp. Cậu bé Gandhi được ghi nhận là “Thần đồng đức hạnh”. Cậu vô cùng nhạy cảm về lòng tốt, biết tự mình chuyển biến hành động xấu thành tốt. 
Trong cuốn tự truyện “Trải nghiệm chân lý” Gandhi viết: “Một thứ ăn sâu trong tôi, đó là niềm tin vững chắc rằng đạo đức là nền tảng của vạn vậtchân lýcốt lõi của đạo đức. Chân lý trở thành mục tiêu duy nhất của tôi. Tầm quan trọng của nó ngày càng lớn và định nghĩa mà tôi đưa ra cũng trở nên rộng lớn chưa từng có”.


Trong một lần chống lại phương pháp ăn chay của bố mẹ, chàng Gandhi bí mật ăn thịt dê cùng một người bạn theo đạo Hồi. Đêm đó, anh gặp ác mộng, mơ thấy một chú dê đang kêu “be, be” trong bụng. Mặc dù vẫn cố chấpăn thịt vài lần trong năm tiếp theo, nhưng cuối cùng chàng tự nhận ra việc lừa dối bố mẹ còn tồi tệ hơn việc không ăn thịt. Gandhi viết:“Nói dối là không tốt” và nhận ra “Chính điều này đã cứu tôi thoát khỏi nhiều cạm bẫy”.

Năm 1883, Gandhi cưới Kasturbai khi cả hai mới mười ba tuổi. Đó là cuộc tảo hôn, mai mối, nhưng Gandhi rất yêu vợ. Bà sinh cho ông bốn người con trai và luôn ủng hộ ông trong suốt cuộc đấu tranh giành độc lập và phát triển năng khiếu bản thân. Tuy nhiên sau đó ông phản đối công khai việc hôn nhân theo sắp đặt. Ông viết: “Tôi không hề thấy đạo đức nào ủng hộ việc tảo hôn phi lý này”.

Năm 1887, gia đình miễn cưỡng để Gandhi rời Ấn Độ sang London học luật. Mẹ ông bắt ông phải thề không đụng tới thịt, rượu và đàn bà ở đó. Ông gia nhập Hội người ăn chay London. Trở về Ấn Độ, Gandhi hành nghề luật sư. Năm 1893, ông bỏ nghề luật sư giàu có ở Bombay, đến Nam Phi sống với một bảng một tuần. Ông đi du lịch từ Pretoria, người ta yêu cầu ông phải rời khỏi toa hạng nhất chỉ vì ông không phải người da trắng. Ông không chịu chuyển sang toa dưới, bị người ta đẩy xuống tàu. Ông đã sống ở Nam Phi trong 21 năm sau đó để chống chính sách kỳ thị chủng tộc.

Tuổi thơ Gandhi là cậu bé nhút nhát. Học trung học, cậu luôn sợ những học sinh nhỏ bé hơn mình. Người vú nuôi Rambha đã đưa ra một lời khuyên làm thay đổi cuộc đời Gandhi. Bà nói: “Việc con sợ là không sai, nhưng khi con sợ một cái gì đó, thay vì bỏ chạy, con hãy đứng yên, và đọc đi đọc lại câu thần chú “Rama, Rama”. Khi đó, nỗi sợ hãi sẽ tan biến.”

Hãy giữ chặt tâm trí và trái tim tôi.

Cách tiếp cận tôn giáo của Gandhi âm vang đến ngày nay. Việc theo đuổi ngành luật không cản trở sự phát triển tinh thần của Gandhi. Ông nghiên cứu các tôn giáo hàng đầu trên thế giới và những điều luật của chúng để tìm ra mối liên hệ và điểm chung trong các tôn giáo khác nhau. Khả năng kết hợp các tôn giáo hoàn toàn khác biệt nhau như: Phật giáo, Thiên Chúa giáo, đạo Do Thái, đạo Hồi, và Ấn Độ giáo, đã góp phần tạo nên Gandhi - Một thiên tài tâm linh.

Ông dành cả cuộc đời để theo đuổi, áp dụng sự uyên thâm, và những tư tưởng đầy tính thuyết phục của các tôn giáo này vào chính trị và xã hội. Gandhi viết: “Điều mà tôi mong muốn đạt được là phát triển năng khiếu bẩm sinh để được gặp Chúa. Toàn bộ các bài viết, bài diễn thuyết và tất cả những việc tôi làm trong lĩnh vực chính trị, đều nhằm đến kết quả cuối cùng này.” Gandhi nhận ra rằng tình yêu, lòng khoan dunglòng trắc ẩn đều hiện diện trong trái tim của mỗi con người, bất kể tín ngưỡng nào. Ông thấy điều này thể hiện trong đoạn kinh của đạo Hindu:

Một bát nước mang lại một bữa ăn thịnh soạn
Một lời chào tạo nên lòng nhiệt huyết
Một mẩu bút chì đơn giản có thể đem lại thỏi vàng thoi
Do đó, từng lời nói, từng hành động quan tâm
Từng cử chỉ giúp đỡ nhỏ cũng có giá trị gấp mười lần
Nhưng một người quý tộc
Thật sự hiểu rằng tất cả mọi người đều như nhau
Sẽ đem lại niềm vui sau những tai ương đã xảy ra.

Đức tin của Gandhi chặt chẽ, thuyết phục. Lương tâm trong sáng của ông luôn song hành với một ý chí không thể bị khuất phục. Một phụ tá thân cận của ông nói: “Hầu hết mọi người đều nghĩ một đằng, nói một nẻo và làm một kiểu khác. Nhưng Gandhi thì không như vậy. Ông nói những gì mình tin và thực hiện những gì mình nói, nên tâm hồn, trí tuệ và thân xác của ông hòa làm một”. Ông là một khối sức mạnh nội tâm vững vàng “Hãy giữ chặt tâm hồn và trái tim tôi”.

Tâm hồn vĩ đại
Rabindranath Tagore (1861- 1941) nhà thơ Ấn Độ đoạt giải Nobel gọi Gandhi là “Mahatma” với ý nghĩaTâm hồn vĩ đại. Một tâm hồn cao đẹp và khả năng kết hợp chân lý của mọi tôn giáo trên thế giới. Sự tận tâm giúp đỡ, lòng vị thacầu nguyện của Gandhi được rèn luyện từ gia đình theo văn hóa Ấn Độ giáo. Ấn Độ giáo coi giúp đỡ người khác là niềm hạnh phúc và được khai sáng. Tagore nói: “Tôi tỉnh dậynhận ra sống là để giúp đỡ người khác. Tôi đã hành động và coi đó là niềm hạnh phúc”.

Gandhi nhận ra rằng tình yêu, lòng khoan dunglòng trắc ẩn, đều hiện diện trong trái tim của mỗi người, bất kể tín ngưỡng nào. Bằng cách gỡ bỏ nguyên tắc đạo đức hàng đầu của mình ra khỏi những hạn chế của bất cứ tôn giáo nào, cuộc khảo sát của ông trở thành một sứ mệnh tinh thần thực sự, vượt qua mọi biên giới tôn giáoTrung tâm tư tưởng không bạo lực, không sát sinh của Gandhi có nguồn gốc từ quan niệm cho rằng toàn bộ cuộc sống của chúng ta được đan dệt trong tấm thảm tình yêu. Ông viết: “Không bạo lực thì không có bệnh tật trong cuộc sống. Do đó không bạo lực là thể thức đem lại những điều tốt đẹp cho cuộc sống. Đó là tình yêu tinh khiết. Tôi đã đọc được điều đó trong Kinh thánh Ấn Độ giáo, Kinh Phúc Âm, Kinh Koran”.

Với mong muốn dành Tự do cho Ấn Độ, Gandhi trở lại Ấn Độ vào năm 1914, nhanh chóng giữ vai trò lãnh đạo Liên hiệp tự trị toàn Ấn Độ, trở thành lãnh tụ Quốc dân đại hội Ấn Độ. Ông tổ chức các chiến dịch bất phục tùng trong nước dựa trên phương thức bất bạo động. Ông nhiều lần bị thực dân Anh bắt tù. Thảm kịch xảy ra khi Gandhi bị ám sát tại Delhi ngày 30 tháng 1 năm 1948, do một môn đồ Hồi giáo cực đoan. Trước khi nhắm mắt, Gandhi đã gọi tên Thượng đế. Sau cái chết của Gandhi, Tổng thống Ấn Độ Jawaharlal Nerhu đến Princeton thăm Albert Einstein. Hai người thảo luận về sự tồn tại song song nghịch lý giữa sự phát triển bom nguyên tử và sự phát triển tư tưởng Gandhi.

Einstein bình luận: “Gandhi đã chứng minh việc tập hợp thành công sức mạnh quần chúng không thể bằng cách sử dụng các thủ đoạn chính trị xảo trá, khéo léo, thông thường mà phải bằng tấm gương đạo đức cao đẹp giàu tính thuyết phục. Trong thời đại đạo đức suy đồi ngày nay, ông là một chính khách chân chính, bảo vệ cho quan hệ nhân văn giữa người với người trong lĩnh vực chính trị… Cho đến nhiều thế hệ sau, người ta không thể tin rằng một con người bằng da bằng thịt như vậy đã bước đi trên trái đất này”.

Gandhi đã sống với một hình mẫu khắt khe của “đại số học đạo đức”. Sự tận tâm giúp đỡ, lòng vị thacầu nguyện của Gandhi được rèn luyện trong môi trường gia đình. Ấn Độ giáo coi việc giúp đỡ người khác là niềm hạnh phúc và được khai sáng. Trong triết lý của Gandhi, sự giúp đỡ xuất phát từ đáy lòng, là niềm vui sướng tột đỉnh và là bí mật của sự phát triển năng khiếu bản thân. Ông viết: “Nếu tôi bị cuốn hút vào sự giúp đỡ cộng đồng thì lý do ẩn sau chính là sự khát khao được thấu hiểu. Tôi tạo ra tôn giáo của sự giúp đỡ vì tôi cảm thấy người ta chỉ nhận thấy Chúa thông qua sự giúp đỡ”. Với ông, lòng vị thasức mạnh “Tha thứ là đức tính của người mạnh mẽ”.

Gandhi học được tính vị tha từ cha mình. Ông kể: “Tôi đã lấy trộm một thứ đồ của cha và phải chịu day dứt, ân hận đau đớn. Tôi quyết định viết lời thú tội nộp cha để xin ông tha thứ. Tôi hứa từ nay sẽ không bao giờ ăn trộm nữa. Tôi tự tay đưa tờ giấy cho cha. Cha tôi đọc, những giọt nước mắt lăn trên má, rơi xuống làm ướt tờ giấy. Ông nhắm mắt lại trong giây lát và suy nghĩ. Ông ngồi xuống và đọc. Tôi thấy sự đau đớn tột cùng của cha. Tôi khóc. Hai cha con cùng khóc. Những giọt nước mắt của tình yêu đã thanh lọc trái tim tôi và xua tan bóng mây tội lỗi. Chỉ có ông, người có tình yêu ấy, mới biết nó là cái gì”.

“Những kẻ yếu đuối không biết tha thứ
Tha thứ là đức tính của người mạnh mẽ”
(Mahatma Gandhi)

Gandhi tôn thờ sức mạnh của cầu nguyện.
Ông nói: “Việc cầu nguyện đã cứu vớt cuộc sống của tôi… Tôi đã chia sẻ trải nghiệm cay đắng nhất của bản thân và của cộng đồng. Họ ném tôi vào tận cùng tuyệt vọng. Tôi thoát ra được nỗi tuyệt vọng đó là nhờ cầu nguyện. Khi tôi đau khổ, chỉ có cầu nguyện mang lại niềm vui cho tôi”. Với ông, cầu nguyện là chất xúc tác của “quyền lực tâm linh” và là công cụ quan trọng nhất của hành động. Ông viết: “Sự thỉnh cầu, sùng báicầu nguyện không phải là mê tín dị đoan. Đó là những hành động thực tế hơn cả hành động ăn, uống, ngồi hoặc đi. Cầu nguyện thành tâm có thể gặt hái được những thứ mà không điều gì khác trên thế giới này có thể làm được.”

Bất bạo lực
Lòng vị tha, sự giúp đỡ và cầu nguyện của Gandhi được thể hiện ra trong triết lý chính trị về đối kháng thụ động hay đấu tranh hòa bình của ông. Cuộc đụng độ định mệnh trên chuyến tàu tới Pretoria mà sau đó ông đã quyết lưu lại hai mươi năm ở Nam Phi. Sau này ông viết về ngày hôm đó: “Tôi bắt đầu suy nghĩ về nhiệm vụ của mình. Thật là hèn nhát khi trở lại Ấn Độ mà chưa làm tròn bổn phận của mình. Thử thách thật sự nằm trong căn bệnh phân biệt sắc tộc ăn sâu, bào mòn trong suy nghĩ của con người. Tôi phải cố gắng triệt tận gốc căn bệnh này.”

Trung tâm của học thuyết Gandhi là khái niệm không sát sinh hay không bạo lực. Nó có nguồn gốc từ quan niệm cho rằng toàn bộ cuộc sống của chúng ta được đan dệt trong tấm thảm tình yêu. Ông viết: “Không bạo lực thì không còn bệnh tật trong cuộc sống. Do đó không bạo lực là thể thức đem lại những điều tốt đẹp cho cuộc sống. Đó là một tình yêu tinh khiết. Tôi đã học được điều đó trong Kinh thánh Ấn Độ giáo, Kinh Phúc Âm, Kinh Koran”.

Trong cuộc đấu tranh giành Quyền và Lợi cho người dân, với thực dân Anh ở Ấn Độ, Gandhi hướng dẫn nhân dân Ấn Độ tự lực. Ông chủ trương phát cho mỗi người một guồng xe sợi (charkha), để họ tự dệt áo, tự trồng cấy chăn nuôi, tự cứu sống mình bằng lao động. Sự kiện này gây chấn động chính trị, vì Gandhi dùng biện pháp này để phản đối chính sách bài trừ ngành công nghiệp may Ấn Độ của thực dân Anh. Ông đứng đầu cuộc biểu tình đốt quần áo do người Anh sản xuất. Charkha trở thành biểu tượng tượng trưng cho lối sống truyền thống của người Ấn Độ. Biểu tượng này được đưa vào lá cờ của Quốc dân Đại hội Ấn Độ. Nó có sức mạnh tập hợp nhân dân Ấn Độ đứng lên chống lại thực dân Anh.

Nhưng Charkha ông chỉ đơn giảnbiểu tượng chính trị. Nó thể hiện tinh thần thực tiễn của Gandhi. Ông cho rằng việc ngồi xe sợi là một cơ hội để suy ngẫm. Người ta thường thấy hình ảnh ông ngồi bên guồng xe sợi. Ý nghĩa của việc mặc áo tự dệt là đạo đức nguyên thủy của con người với tinh thần độc lập tự chủ trong cuộc sinh tồn. Năm 1945, trong thư gửi Nerhu, Thủ tướng đầu tiên của Ấn Độ độc lập, Gandhi nhấn mạnh biểu tượng Charkha mà mình chọn: “Tôi thấu hiểu rằng nó không nằm ngoài chân lýbất bạo động. Chúng ta có thể nhận ra chân lýbất bạo động trong sự giản dị của cuộc sống. Sự giản dị này được thể hiện đậm nét qua hình ảnh guồng xe sợi và tất cả những hàm ý khác. Con người nên tự tạo ra những gì mà mình thật sự cần hay nói cách khác là tự cung cấp”. (Sách Khám phá Thiên Tài… của Michael J. Gelb- NXB Lao động- Xã hội- 2008)

Sự khai sáng mà Gandhi theo đuổi buộc ông phải luyện tập một chế độ ăn kiêng ngặt nghèo, nhằm kiểm soát cơ thể, biến đổi năng lượng của ham muốn, thông qua việc tự thanh lọc và phát triển năng khiếu bản thân. Điều này bao gồm cả lời thề sống độc thân, bởi vì “không thể trong sạch khi vẫn còn nhục dục” và ông nghiêm khắc thực hiện chế độ ăn kiêng.

Cách tiếp cận thế giới tâm linh của Gandhi vẫn âm vang tới tận ngày nay: “Có rất nhiều cách định nghĩa Thượng đế bởi vì Ngài có rất nhiều cách thể hiện. Những định nghĩa ấy làm tôi liên tục ngạc nhiên, sợ hãi và choáng váng. Nhưng tôi chỉ tôn kính Ngài như một chân lý. Tôi chưa từng thấy Ngài, nhưng tôi đang tìm Ngài. Tôi sẵn sàng cống hiến những gì quí báu nhất để đi tìm. Ngay cả sự cống hiến đòi hỏi sinh mệnh của tôi thì tôi cũng sẵn lòng dâng hiến”.

Với mong muốn giành tự do cho Ấn Độ như đã công bố trước công chúng năm 1908, Gandhi trở lại Ấn Độ năm 1914 và nhanh chóng giữ vai trò lãnh đạo Liên hiệp tự trị toàn Ấn Độ, trở thành lãnh tụ Quốc dân Đại hội Ấn Độ. Từ năm 1920 trở đi ông tổ chức các chiến dịch bất phục tùng trong nước dựa trên phương thức bất bạo động. Triết lý của Gandhi có ảnh hưởng sâu sắc tới các phong trào chính trị hiện đại, đặc biệtphong trào vận động quyền công dân của Mỹ do Tiến sĩ Martin Luther King lãnh đạo. Ông nói: “Trong đời mình, Gandhi có thể huy động và kích động một lực lượng mạnh hơn bất kỳ ai trong lịch sử. Và chỉ với tình yêu, sự hiểu biết, thiện chí và sự khước từ những luật lệ tàn ác, ông có thể bẻ gãy sức mạnh của đế chế Anh. Đây là một trong những điều ý nghĩa nhất từng xảy ra trong lịch sử thế giới. Hơn ba trăm triệu người đã giành được tự do mà không phải đổ máu”.

Mai Thục.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 16594)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 8188)
Việc nghiên cứu Kinh Lăng-già, đã được ngài D.T.Suzuki thực hiện, qua tác phẩm “rất thẩm quyền”: Studies in the Lankavatara Sutra – nghiên cứu về kinh Lăng-già.
(Xem: 18910)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 7898)
Chính pháp trụ một nghìn năm, tượng pháp trụ một nghìn năm, mạt pháp trụ một vạn năm. Thuyết này trích trong Kì-hoàn tinh xá bi.
(Xem: 6809)
Nhị đếtục đếchân đế, còn gọi là chân lý tương đốichân lý tuyệt đối hay chân lý thế gianchân lý xuất thế gian.
(Xem: 8102)
Phật giáocách sống dựa trên việc rèn luyện tâm. Mục đích cao nhất là để đi trên con đường giải thoát khỏi đau khổ, và đạt đến Niết Bàn,
(Xem: 8478)
Trong 2 giai tầng của việc phát triển tâm giác ngộ nguyện vọng và dấn thân, chỉ với việc dấn thân chúng ta mới thọ giới Bồ tát.
(Xem: 9543)
Trích từ quyển How to See Yourself as You Really Are của Đức Đạt Lai Lạt Ma - Tuệ Uyển chuyển ngữ
(Xem: 9433)
Thực chứng giáo lý duyên khởi, người thông tuệ hoàn toàn không vướng vào những quan điểm cực đoan...
(Xem: 7600)
Công cuộc hiện đại hóa giáo dục đại họcTrung Quốc bắt đầu từ việc chính phủ Mãn Thanh xây dựng “Kinh Sư Đại Học Đường” năm 1910 chiêu sinh sinh viên chính quy đầu tiên.
(Xem: 8173)
Đức Phật nói, nếu giữ tâm vững như hòn đảo trước phong ba bão táp của cuộc đời thì chúng ta sẽ có được chất liệu an vui, an vui về thái độ, tinh thần...
(Xem: 8187)
Phật dạy thân người do tứ đại gồm bốn chất đất-nước-gió-lửa hòa hợp lại hình thành; đất với gió lại không thuận với nhau, gió thổi mạnh thì đất rung rinh..
(Xem: 7831)
Phật dạy trong mỗi người chúng ta đều có phần tâm linh sáng suốt, nương nơi mắt thì thấy biết không lầm lẫn, sự vật như thế nào thì biết rõ như thế đó;
(Xem: 8340)
Thực tại nền tảng của thế giới Hoa Nghiêm là Phật Tỳ-lô-giá-na (Vairocana). Đây là Pháp thân của Đức Phật Thích-ca và cũng là Pháp thân của tất cả chư Phật.
(Xem: 9873)
Dựa trên giả định các hoạt động của Tâm tạo ra những cấu trúc não bộ mới (Hebb 1949) cho biết ý tưởng, tình cảm có thể để lại dấu ấn
(Xem: 8906)
Là giai đoạn duy nhất trong kinh nghiệm cận tử liên quan đến việc nhận thức thế giới mang tính vật lý hơn là tính tâm linh...GIDEON LITCHFIELD
(Xem: 8686)
Khi Mâu Tử, một tri thức Tàu, tị nạn tại Giao Châu và viết trong Lý Hoặc Luận vào cuối thế kỷ thứ 2 sau tây lịch rằng, “Đất Hán chưa chắc là trung tâm của trời đất,”
(Xem: 7944)
Nếu quý vị không có tuệ giác trong cung cách chính mình và mọi thứ thật sự là, quý vị không thể nhận ra và xa lánh những chướng ngại...
(Xem: 9851)
Tâm ta là vật quan trọng nhất. Mọi sự đến từ tâm, vì thế tất cả những gì không ai ưa thích mà giờ đây ta đối mặt cũng đến từ tâm.
(Xem: 9740)
Những giác quan của chúng ta góp phần cho sự si mê của chúng ta. Đối với những tính năng của chúng ta về thấy, nghe, ngửi, nếm, và cảm giác, những đối tượng dường như tồn tại trong tự bản chất của nó.
(Xem: 9250)
Chết là một bộ phận trong sự sống của chúng ta. Dĩ nhiên, theo quan điểm của Phật Giáo, thân thể này trong một ý nghĩa nào đó là một kẻ thù.
(Xem: 10157)
Bất cứ ai quan tâm đến lịch sử Đức Phật đều muốn biết về bữa ăn cuối cùng của Ngài do ông Thuần Đà (Cunda) cúng dường,
(Xem: 14433)
Là vị Bồ Tát tiêu biểu cho Trí Tuệ, Bồ Tát Văn Thù thường được miêu tả với dáng dấp trẻ trung ngồi kiết già trên một chiếc bồ đoàn bằng hoa sen.
(Xem: 9018)
Đức Phật là một bậc đạo sư thực tiễn. Mục tiêu duy nhất của Ngài là giải thích tất cả chi tiết trong vấn đề của khổ là thực tế phổ biến của cuộc đời.
(Xem: 8509)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 9687)
Khi mới thành đạo, đức Phật đã nói: “Lạ thay tất cả chúng sanh đều có đức tính trí huệ của Như Lai mà bị vô minh che lấp nên không phát hiện ra được”.
(Xem: 15547)
Ở đời tuổi tác là một nhân tố quan trọng tác thành nên vị trí của cá nhân trong cộng đồng. Trong đạo cũng vậy, những bậc truởng lão, thâm niên lại càng được kính nể và tôn trọng hơn.
(Xem: 8097)
Bảy yếu tố khiến Tăng đoàn hưng thịnh hay còn gọi là bảy pháp bất thối được đề cập trong bài kinh Đại bát Niết bàn, gồm: Có Tín tâm, có Tàm, có Quý, Đa văn, Tinh tấn, Chánh niệmTrí tuệ.
(Xem: 10965)
Cứu cánh của Phật giáo là sự Giác Ngộ, phương tiện giúp đạt được Giác NgộTrí Tuệ, và đối nghịch với Trí TuệVô Minh.
(Xem: 11690)
Đạo đức học là một bộ phận của triết học nhằm dựa vào lý tríthiết lập một sự phân biệt giữa thiện và ác, giữa điều được làm và điều bị cấm làm.
(Xem: 8771)
Trong đời tu hành của con có một chướng ngại mà con không vượt qua được, đó là những niệm tưởng lăng xăng. Nó quấy rầy luôn, cả những lúc nghỉ ngơi cũng không yên.
(Xem: 9005)
Điều cần bảo vệ chính là cái tâm của người con Phật, biết kiên trì thực hành những lời Phật dạy để đem lại an lạc cho chính mình và những người chung quanh
(Xem: 11888)
Chữ “giác ngộ” trong Đạo Phật, tiếng Pali và Sanskrit đều là “Bodhi”. Tiếng Anh là “enlightenment” hay “awakening”
(Xem: 9340)
Chúng tôi đã thuyết giảng về những cảm xúc đau khổ và các tai hại mà chúng sẽ gây ra cho việc hành trì tu tập của chúng ta.
(Xem: 21626)
Chúng ta đã biết đời là vô thường đau khổ, nhưng chúng ta còn cố chấp cái ngã, cái ta, cố bám víu vào cái của ta, thì chúng ta không thể trừ bỏ được kiêu mạn,
(Xem: 15194)
Người Phật tử có trí và hiểu đạo chỉ quan tâm khiến cho mỗi đời sống là một bước tiến trên con đường tiến bộ tâm linh không ngừng, dẫn tới sự giải thoátgiác ngộ tối hậu...
(Xem: 8585)
Điểm đến của người tu học Phật thường là chứng ngộ (đắc đạo). Ta cũng hay nghe nói Vãng sanh Cực Lạc như một kết quả cho việc hành trì. Vậy, Chứng ngộVãng sanh khác nhau thế nào?
(Xem: 9294)
Khi đã biết nghiệp báo nhân quả không thể tránh, khủng khiếp như thế, chúng ta phải cố gắng tránh làm ác từ ý nghĩ, lời nói đến việc làm
(Xem: 7748)
Khảo sát hiện tượng "hội nhập văn hóa" tại một trung tâm Phật giáovị trí quan trọng vào hàng nhất nhì ở thời Lý-Trần như chùa Quỳnh Lâm...
(Xem: 9313)
Ta-bà là chu kỳ của sự hiện hữu (sự sinh, sự sống và cái chết) chi phối bởi nghiệp (karma). Đấy là chiếc bánh xe của khổ đau hình thành từ các hiện tượng của sự hiện hữu
(Xem: 9362)
Chúng ta sợ đủ thứ: sợ chết, sợ khốn khổ, sợ bị chê bai chỉ trích, và trên tất cả, hình như chúng ta rất sợ sự thật.
(Xem: 10305)
Con người sanh ra trên cõi đời này đã mang theo nghiệp nhân của đời trước, lúc lớn lên lại gây tạo thêm nghiệp mới.
(Xem: 8789)
Tất cả việc làm của Phật giáo đều tập chú vào lợi ích cho chúng sanh. Chúng sanh là đối tượng duy nhất của Phật giáo.
(Xem: 14760)
Mặc dù các tôn giáo nhất là Phật giáo đều nhấn mạnh đến vấn đề Nhân Quả - Nghiệp báo, song Luật Nhân quả không phải là của riêng một tôn giáo nào, nó là một luật của tự nhiên
(Xem: 7948)
“Sống Tỉnh Giác” là sống tỉnh chứ không còn ngủ mê nữa. Đây là đi vào thực hành chứ không phải là học, hiểu hay lý luận suông.
(Xem: 8264)
Sau khi trở thành phật tử, có tam qui, ngũ giới rồi, người phật tử phải sống ra sao để an lạc hạnh phúc?
(Xem: 8339)
Tất cả chúng ta đều có duyên lớn được gặp Phật pháp, được học Phật, được có người chỉ đường, có bản đồ sẵn hết rồi, chỉ còn một việc là bước đi để trở về.
(Xem: 8768)
‘Tâm’ là chữ thường xuyên xuất hiện với người Phật tử mỗi khi nói đến tu tập . Thật vậy, nào là ‘Tu tâm’ , ‘một niệm ở tâm ta’ , nào là ‘giữ tâm ý trong sạch ’ , ‘
(Xem: 9040)
Chánh Giáo (Tam Bồ Đề_ Sambhodhi) cùng Giải Thoátmục đích chung của Phật và các đệ tử Thanh Văn...
(Xem: 8571)
Cầu xin mà có hiệu qủa, chẳng có ai không cầu, cứ ngồi đó mà cầu nguyện là tự có tất cả, chẳng phải làm việc vất vả, cần gì phải học hành cực nhọc....
(Xem: 8114)
Phật Giáo Ấn ĐộTây Tạng phân loại và hệ thống hóa toàn bộ giáo huấn của Đức Phật thành ba chu kỳ khác nhau gọi là "ba vòng quay của bánh xe Đạo Pháp"
(Xem: 7671)
Con Đường Của Bụt là chủ đề của khoá tu An Cư Kiết Đông năm 2008 - 2009. Đây là con đường Bụt đã đi, và chúng ta đang đi theo sự hướng dẫn của Ngài.
(Xem: 9817)
con người, chúng ta có khuynh hướng bám víu vào đời sống của chính mình. Nhà Phật gọi đó là chấp thủ.
(Xem: 7856)
Con người luôn sống trong sợ hãi từ hiện tại cho đến vị lai, là do chính mình gây tạo nên bằng những hành động, lời nóiý nghĩ bất thiện
(Xem: 7776)
Kinh điển thường ví giận dữ như một cơn điên. Người điên cuồng không kiềm chế được ý thức nên hành vi, cử chỉ, việc làm gây thương tổn bản thân và người khác.
(Xem: 6890)
Trồng nhân thiện nhất định được quả thiện, tạo ác nghiệp nhất định chiêu quả khổ.
(Xem: 8676)
Sinh thuận, tử an là một phước báo lớn của con người. Một khi chưa biết nghiệp duyên của mình sẽ chết bình an hay bất an thì hãy cố gắng tu tập các thiện pháp.
(Xem: 8407)
Bản Chất của Hạnh Phúc được trích từ tác phẩm Nghệ Thuật Sống Hạnh Phúc: Cẩm Nang cho Đời Sống, một quyển sách căn cứ trên sự mở rộng những đối thoại giửa Đức Đạt Lai Lạt MaBác sĩ Howard C. Cutter, một nhà tâm lý trị liệu phương Tây.
(Xem: 7925)
Tất cả mọi người ai cũng mang thân này và cho đó là thân mình. Chúng ta mang thân suốt cuộc đời và nhận nó là thân mình nhưng nếu xét kỹ thì chúng ta có thật biết rõ về nó chưa?
(Xem: 7652)
Phải lâu lắm người ta mới quen với ý niệm về tái sinh. Tôi đã đi qua nhiều tầng bậc trong tiến trình đạt đến sự thuyết phục trong vấn đề ấy.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant