Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tính Minh Triết Của Đạo Phật

09 Tháng Năm 201407:55(Xem: 13037)
Tính Minh Triết Của Đạo Phật
blank

Hiện nay Phật giáo có tiếng nói vô cùng quan trọng đối với Liên hiệp quốc, vì đã đánh thức được lương tri, lương tâm con người. Đạo Phật có tính ưu việt đồng thời mang tính minh triết và tồn tại gần 26 thế kỉ. Đức Phật đã truyền thông điệp giác ngộgiải thoát xuyên suốt lịch sử trong quá trình hình thành và bây giờ truyền bá khắp thế giới. Vào thời đại văn minh, người ta sống không phải dễ tin bất cứ một điều gì nên chúng ta cần khơi gợi lại những điểm sáng của đạo Phật để có niềm tin không phai mờ. Cũng chính điều đó mà đạo Phật khác hẳn các tôn giáo áp đặt niềm tin.

Tính minh triết của đạo Phật vô cùng trong sáng, không áp đặt con người phải tin, mà chỉ gợi mở để con người phát huy nội lực của mình bằng sự hiểu biết thông qua kinh nghiệm tu tập để nhận ra đó là lý tự nhiên, lý siêu nhiênĐức Phật đã gợi mở từ xưa đến nay. Đạo Phật đặt nặng tri kiến như thật về các pháp, còn các tôn giáo thần quyền đặt nặng về đức tin, nghĩa là phải tin như thế, không được phản bác hoặc suy nghĩ khác. Đối với Đạo Phật mọi người có quyền nghi ngờ cả lời chỉ dạy lẫn giáo lý của Đức Phật, có quyền phản vấn hoặc đặt câu hỏi với bất cứ một vị chân sư nào truyền đạt thông điệp giác ngộgiải thoát của Ngài. Đạo Phật nói tri và kiến, tức là thấy biết như thật về các pháp, nên luôn có cách nhìn khách quan về các pháp, thấy bằng công phu thiền tập, bằng sự chứng nghiệm tự thân thì mới thấy giá trị đích thực lời Phật dạy. Mãi đến bây giờ, những lời dạy của Ngài vẫn còn nguyên giá trị, là đuốc soi đường cho nhân loạithế giới đương đại, thế giới nguy hiểm về tính si mê, chạy theo vật dục. Nhà Phật có đề cập đến tri kiến Phậttri kiến phàm phu. Tri kiến phàm phu là cái thấy biết sai lầm, chẳng hạn trong nhà Phật nói thấy dây thừng mà tưởng thành con rắn, thuyền đi mà ngỡ bờ chạy, mây bay mà tưởng đó là trăng dời. Cái nhìn của phàm phu là nghe, thấy, biết nhưng bằng tham sân si, phiền não, vô minh nghiệp chướng nên còn sai lạc không đúng về sự thật vốn có của các pháp, nên khi gột rửa những cấu nhiễm trong tâm sẽ dần dần thấy biết chính xác hơn. Cái thấy chấp ngã, điên đảo, vọng tưởng, tham sân si chỉ là cái thấy phàm phu. Đức Phật vốn thấy biết nhưng không còn vọng tưởng vô minh điên đảo như chúng ta, cả một đời Đức Phật xuất hiện để khai thị cho chúng sanh thấy được tri kiến đó tiềm ẩn trong lớp bụi phiền não, trong thân ngũ uẩn, hễ khai phát ra và ứng dụngtri kiến Phật. Chúng ta sống với tri kiến phàm phu nên khổ mà chính chúng tatác nhân, tác giả của nỗi khổ trên cuộc đời phiền trược này chứ không phải thượng đế hoặc bề trên bắt chúng ta khổ đau hoặc hạnh phúc. Thay vì giải thích nguyên ủy của vũ trụ nhân sinhchơn tâm phật tánh thì các tôn giáo nói rằng có một đấng bề trên chi phối vận mạng của chúng ta.

Đến với đạo Phật, thiên đường hay địa ngục, hạnh phúc hay khổ đau, chánh báo hay y báo, phong trần hay phong lưu đều do chúng ta gây ra bởi chính chúng tatrung tâm của vũ trụ chứ không phải thượng đế hay đấng bề trên bày vẽ ra, đó là tính nhân bản mà cũng là tính dân chủ, bình đẳng của đạo Phật, và chỉ có đạo Phật mới thuyết minh được sự khác nhau giữa con ngườicon người, là do tính tương tục của nhân quả trong đó ghép thêm yếu tố thuận và nghịch của duyên. Khi luận nhân duyên và quả về lý tự nhiên của trời đất, các pháp đang vận hành thì Đức Phật soi rọi nhân sinh để nói nhân quả báo ứng hay nhân quả nghiệp báo, đó là giải thích sự sai thù về những vận mạng khác nhau của con người mà chính họ đã tạo nhân, đủ duyên, có kết quả, có chánh báoy báo không ai giống ai. Đạo Phật giải thích rất công bằngcông tâm. Nhân quảcông lý, là hình thức xử phạt của công lý tự nhiênnhân quảdiễn tiến vô thường trong thế giới tự nhiên, nhân mà gặp duyên nghịch thì quả chẳng tốt đẹp. Rõ ràng như cán cân công lý trong đó không phải do Thượng đế thiếu công bằng, nên chúng ta có thể lý luận người nào nghiệp nặng thì gặp ba ác đạo địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, còn thuận duyên nghiệp nhẹ thì gặp ba đường lành, Trời, Người, A Tula. Nhân, duyên và quả có sẵn trong thế giới tự nhiên, tính minh triết về thế giới nhị nguyên tương đốithiện ác, đúng sai, tốt xấu, hạnh phúc khổ đau. Sau đây là bài kệ Nhân quả ba đời:

Dục tri tiền thế nhân.

Kim sanh thọ giả thị.

Dục tri lai thế quả.

Kim sanh tác giả thị. ”

Nghĩa là: Muốn biết nhân đời trước thì xem mọi thọ dụng đời này, coi hiện tại mình đang thọ hưởng gì, nghèo hay giàu, sướng hay khổ thì có thể biết được kiếp trước mình đã tạo gì. Muốn biết được tương lai thì không nên xem bói toán hoặc gặp thầy tướng mà chỉ cần nghiệm lại ba nghiệp thân-khẩu-ý mình đã tạo tác những gì ở đời này. Nếu trong từng thời khắc hiện tại chúng ta nói, nghĩ và làm những điều thiện lành và có sự tu tập thì tương lai sẽ tốt đẹp. Bài kệ nhân quả này không có yếu tố của thần linh, không mang ý nghĩa ban phước giáng họa của bề trên, không có đấng quyền năng nào chi phối vận mệnh con người mà tất cả đều diễn tiến theo lý nhân quả tự nhiên. Tính minh triết của đạo Phật về nghiệp báo luân hồi, nhân quả báo ứng trở thành triết thuyết, chinh phục lương tri lương tâm con người, giải thích sự bất bình đẳng giữa nhân sinh, trong đó phủ nhận yếu tố thần linh chi phối vận mạng con người, đó là vấn đề cơ bản nhất của đạo Phật. Nếu chúng ta không thông hội mà cứ gởi gắm niềm tin hết chỗ này đến chỗ khác thì niềm tin của chúng ta không phải bằng tri kiến như thật mà bằng đức tin Thần Thánhcon người hay ỷ lại vào bề trên.

Đạo Phật là một tôn giáo được xây dựng nền móng bằng trí tuệ Bát nhãBát nhãtrung tâm phát huy nội lực của đạo Phật, xây dựng nên trí tuệ vút cao. Chính nền móng căn bản này mà tất cả những sứ giả Như Lai đem đạo Phật vào đời, tự tạo dựng nên nền minh triết mà thế giới hiện tại khâm phục và quý trọng. Đạo Phật khác hẳn những tôn giáo niềm tin bởi vì đạo Phậtđức tin nhưng không áp đặt niềm tin. Xưa kia vua chúa quan lại có ấn dấu để chứng thực uy quyền của vua quan, nếu không có ấn dấu thì tầng lớp này không làm việc được vì họ nhận trọng trách để điều hànhhiệu lực đối với ba quân tướng sĩ. Đệ tử Như Lai nếu khôngpháp ấn thì sẽ làm sai lệch giáo lý của Ngài mà giáo lýbản chấtcốt lõi của đạo Phật, và càng không thể thừa hành trọng trách “ Tác Như Lai sứ, hành Như Lai sự ” được. Nếu như ấn dấu là chứng thực uy quyền của vua thì đấng Pháp Vương Vô Thượng dùng ấn dấu để các đệ tử của Ngài trong công tác giáo hóa độ sinh phát huy năng lực truyền bá chánh pháp, lợi lạc quần sanh.

Ấn dấu của Đấng Pháp Vương bao gồm: Tứ pháp ấn, Tam pháp ấnNhất pháp ấn, là những ấn dấu hình thành nên sứ mệnh của đạo Phật trong cuộc đời. Tứ pháp ấnvô thường, khổ, không, vô ngã. Nếu đệ tử Phật không thông hiểu thì chưa thấy được giá trị của đạo Phật. Vô thường là sự chuyển dịch di dời trong lòng sự vật. Đạo Nho đã viết ra quyển Kinh Dịch nói về sự chuyển dịch của trời đất. Vô thườngđại hóa, biến hóa ở bất cứ mọi lúc, mọi nơi, vận động di dời là sự sống, đứng yên là chết, nên vô thường là sự sống. Chúng ta cần hiểu sâu vô thường để hiểu đạo lý một cách tích cực, đó là ý nghĩa của Bồ Tát đạo. Nếu hiểu vô thường đem đến khổ đau cho nhân thế rồi chán nản thì chúng ta cố gắng thúc thủ, diệt dục, tiến tu, dừng lại, đứng yên lặng lẽ trong Niết bàn. Đó là Niết bàn tịch tịnh lặng lẽ của Nhị thừa. Nếu hiểu vô thường là sự sống để tích cực hành Bồ Tát đạo, phát huy điểm sáng của vũ trụ thì đó là điểm nhấn của Phật giáo đại thừa. Nhà Phật nói: Vô thường thị thường, quá khứ đã vô thường, hiện tại đang vô thường, tương lai sẽ vô thường. Vô thường là một thực tại không thay đổi, là lý thường của trời đất, chúng ta không nên bi quan khi nghe nhắc đến vô thường mà cần thấy rằng vô thường là một thực tại rất nhiệm mầu, đẹp đẽchúng ta hãy ở nơi vô thường mà khuếch đại tự do. Muốn thấy được đạo lý chân thật thì không cần cưỡng ép trên công phu hay gượng ép bằng nghiên cứu, tham khảo mà phải có đời sống buông xả ở nơi tự tâm, hãy để tâm mình bồng bềnh tự nhiên theo nhịp sống thì chỗ thấy biết không cần tìm hiểu. Lý luận về mặt tục đế thì cuộc đời này khổ nhiều hơn vui, khổ chi phối thân tâm nên con người tìm cách diệt khổ để thoát khổ. Trong kinh, Đức Phật định nghĩa vì vô thường nên khổ, cái gì đã trôi qua sẽ không còn lại gì, càng lớn lên càng hiểu biết thì con người định giá cuộc đời trở nên thâm trầm, nhẹ nhàng và sâu sắc hơn. Khổ làm cho con người mệt mỏi ê chề, ngán ngẩm, chán chường. Nếu không gặp được vị minh sư thì người ấy bi quan và sẽ buông xuôi. Pháp ấn thứ ba là không, chẳng hạn cái bàn không có thật thể, không có chủ thể, không có ngã riêng, không có thường hằng mà chỉ là một vật thường xuyên di dời, chuyển biến. Nói cái bàn do nhiều duyên hợp lại, nếu đủ duyên thì hiện hữu, không đủ duyên thì ẩn tàng nên chỉ có mặt một cách ước lệ, một cách giả tạm bằng những yếu tố, điều kiện, nhân và duyên. Nói về không của vũ trụ vạn hữu thì tất cả những gì trên trái đất này đều là không mà đại thừa sau này suy tiến lý duy tâm, tất cả là do thức biến tâm hiện, cảnh giới do nghiệp cảm đồng phận chứ không có thật thể nên nói như giấc chiêm bao.

Kinh Kim Cang nói:

Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng, huyễn, bào, ảnh
Như lộ, diệc như điển
Ưng tác như thị quán.

(Tất cả pháp hữu vi
Như mộng, huyễn, bọt,bóng
Như sương cũng như chớp
Nên quán chiếu như thế.)

Phật dạy chúng ta nên khởi quán tất cả pháp hữu vi như giấc mộng, huyễn hóa, như hòn bọt, như cái bóng, như sương mù, như điển chớp. Nói đến vô ngã tức là từng sự vật không có cái ngã riêng, như đóa hoa này nếu rời ánh sáng mặt trời, không khí, đất, nước thì không thể hiện hữu. Rõ ràng các pháp không tự có ngã thể nhưng khi hình thành nên thân này từ đất, nước, gió, lửa hay sắc, thọ, tưởng, hành, thức thì mới gọi là ta, mà nếu thiếu một yếu tố thì không thể tồn tại được. Thân này được tồn tại, lớn lên và trưởng thành chỉ là giả danh giả tướng. Chúng ta hiểu được Tứ pháp ấn vô thường, khổ, không và vô ngã, quán triệt được vũ trụnhân sinh tức là được hỗ trợ bằng Tứ pháp ấn thì cuộc đời chúng ta vô cùng minh triết và đẹp đẽ. Đó là lý do Đức Phật nói Tứ pháp ấn cho hàng đệ tử xuất giatại gia. Nếu người nào muốn thoát khổ thì phải quán triệt được tính minh triết của đạo Phật, điều đó dựng nên cốt lõi bản chất đạo Phật.

Tam pháp ấnchư hành vô thường, chư pháp vô ngãNiết bàn tịch tịnh. Chư pháp vô ngã tức các pháp đều vô ngã, chẳng hạn đóa hoa không phải là hoa mà vay mượn những yếu tố để trở thành hoa. Đóa hoa chỉ hiện diện một cách ước lệ và có mặt bằng những yếu tố phi hoa thì mới hiện diện nguyên hình. Kinh Kim Cang nói: “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai”. (Nếu thấy các tướng là phi tướng tức thấy Như Lai ). Hoặc: “ Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng.” (phàm những gì có tướng mạo đều là hư dối). Do không hiểu được lý như huyễn, như mộng, diễn tiến của các pháp trùng trùng duyên khởi, do tâm lý bên trong của con người thiên biến vạn hóa nên bên ngoài các pháp thiên hình vạn trạng. Kinh Lăng Nghiêm nói: Do bên trong sân nên bên ngoài mới hiện ra lửa, tâm động chuyển theo duyên mới hiện ra gió và bão. Bên trong tâm tham ái nặng nề nên bên ngoài hiện ra nước, do bên trong chấp cứ một cách kiên cố nên bên ngoài hiện ra chất rắn, chất cứng. Tâm con người không có chỗ cùng nên vũ trụ này cũng không có bờ mé. Tâm do mê lầm, nhận biết sai lầm về các pháp nên sanh tâm khởi niệm, bên trong hình thành sáu căn, bên ngoài hình thành sáu trần, rồi có sáu thức khởi, tùy chỗ thọ nghiệp mà các kiếp sống được tiếp tục, chưa bao giờ dừng. Pháp ấn thứ ba của Tam pháp ấnNiết bàn. Có thể lý luận rằng nếu thâm nhậpquán triệt được lý vô thường vô ngã thì đạt Niết bàn trong hiện đời, gọi là hiện tại Niết bàn. Niết bànpháp ấn thứ ba thuộc về chân đế trong khi vô thườngvô ngã thuộc về tục đế. Niết bàn là nói về lý chân thật ở trong thế giới siêu nhiên, trong khi vô thườngvô ngã nói về thế giới tự nhiên. Trong có sáu căn, ngoài có sáu trần đối diện hằng ngày nhưng không phan duyên nên ở trong Niết bàn lặng lẽ yên ổn.

Nhất pháp ấn là gì? Đức Phật nói đến Nhất pháp ấnnhất tâm chân như, là con người chân thật hiện hữu nơi đây, bây giờ. Con người đó vô sắc, vô thinh, vô tung, vô khứ vô lai, bất sinh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm. Hư không không có đến, không có qua có lại, sắc thân sanh thân này có đi vào ba cõi sáu đường, sanh sanh diệt diệt và sống chết đắp đổi, nhưng pháp thân vô tung bất diệt đó không đi qua đi lại, không sanh sanh diệt diệt với thân này. Hòa thượng Trúc Lâm dạy chúng ta phải ý thức sâu sắc về thân này. Nơi thân này có pháp thân, nơi những đợt sóng trùng điệp trên biển trùng dương có tánh ướt của biển cả, có nước biển trong từng đợt sóng, muôn ngàn đợt sóng đều có nước. Thân gồm sắc thọ tưởng hành thức, không cách pháp thânpháp thân đó là điều kỳ diệu bởi phàm thân tức là Phật thân. Tất cả vũ trụ vạn hữu đều là biến hiện theo nghiệp riêng của từng người và nghiệp chung của chúng sanh giống nhau về một môi trường, tức nghiệp cảm đồng phận, nghiệp riêng giống nhau sẽ dẫn dắt đến hoàn cảnh giống nhau.

Nhất tâm chân nhưNhất pháp ấn. Truyền thống của thiền đốn ngộ nói rằng: Có một lần khi nói xong kinh Pháp Hoa tại hội Linh Sơn, Đức Phật cầm cành hoa sen lên, Ngài đưa mắt nhìn khắp lượt đại chúng,chỉ có Ngài Ca Diếp nở nụ cười hàm tiếu, mọi người ngơ ngác, Đức Phật truyền tâm ấn cho Ngài Ca Diếp làm Sơ Tổ Thiền Tông. Cuối đời, Đức Phật nói kinh Pháp Hoađại sự nhân duyên. Đại sự duy nhất mà Ngài thị hiện trên cuộc đời là khai thị để chúng sanh nhận ra tri kiến phật của chính mình. Tức là tất cả chúng sanh đều có chơn tâm phật tánh, bản lai diện mục. Sau khi trao truyền thông điệp ấy thì Đức Phật nhập Niết bàn, nên đó chính là cứu cánh rốt ráo cuối cùng của đạo Phật. Về sau gọi là Thiền tông đốn ngộ, bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật. Thiền đốn ngộ từ thời Tổ Bồ Đề Đạt MaTây Trúc sang Ấn Độ thời Lương Võ Đế. Sau đó mới truyền thừa cho Ngài Huệ Khả, Tam Tổ Tăng Xán, Tứ Tổ Đạo Tín truyền cho Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn truyền cho Lục Tổ Huệ Năng, và từ đó về sau dừng y bát, vì có họa tranh giành. Đời Trần ở Việt Nam các dòng Thiền dung hợp lại thành Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Sơ Tổ của Thiền phái Trúc Lâm là một vị vua bỏ ngai vàng đi tu sau này trở thành Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Hòa thượng Trúc Lâm là người đặc biệt có công rất lớn, Ngài sinh ra vào thời mạt pháp, nhưng nhờ gặp được những vị thầy là chân sư tu theo Tịnh độ tông. Hòa thượng là người có duyên rất đậm với Thiền tông nên đã phát huy và khôi phục lại dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử cho đến ngày nay. Hòa thượng một đời trọng tâm nhắm đến Nhất pháp ấn của Phật là tu để nhận ra con người chân thật nơi mỗi chúng ta.

Cốt lõi hình thành nên tính minh triết của đạo PhậtTứ pháp ấn, Tam pháp ấnNhất pháp ấn. Nhất pháp ấn là đỉnh điểm cao nhất của đạo Phật, hình thành Thiền đốn ngộ. Thiền đốn ngộ không vượt ra ngoài Nhất pháp ấn. “Nhất thiết chúng sanh, giai hữu Phật tánh”. Tức là tất cả chúng sanh đều có tri kiến Phật, đều có đức tướng trí huệ của Như Lai. Vì vậy đạo Phật không phải là tôn giáo thần quyền, ban phước giáng họa hay áp đặt niềm tin, chỉ giúp chúng ta tự tại giữa dòng đời, thoát ra khỏi mọi cám dỗ của cuộc sống, tâm không bị mê mờ, ô nhiễm bởi tham sân si, vọng tưởng điên đảo, để được sống cuộc đời hồn nhiên trong sáng, thênh thang trong từng thời khắc. Nếu kẻ giàu mà mê muội chấp trước, còn người có cuộc sống bình dịhạnh phúc thì lòng người ấy sẽ phơi phới giữa thế gian sinh diệt.

Khoa học vận dụng tri thức vào cuộc sống, xem tri thức là một mắc xích chiến lược để phát triển bền vững cho xã hội loài người nhưng cuối cùng chỉ là cơm no áo ấm rồi chết. Họ không tìm ra chân nghĩa của cuộc sống, đó là bế tắc của khoa học mà tri thức không thấy được tự thân của thực tại. Tri thức động chuyển với cách nhìn thấy và có đối tượng thấy, có người biết là có đối tượng biết, có người nghiên cứu là có đối tượng nghiên cứu nên cứ loanh quanh luẩn quẩn trong vòng tương đối không đi vào Thiền định để nhận chân thực tại. Nhược điểm của khoa học là tạo ra mọi tiện ích, đồng thời cũng chế ra bom đạn vũ khí làm ảnh hưởng cuộc sống con người. Khoa học được xem là khí giới vạn năng có thể chinh phục thiên nhiên nhưng lại làm cho môi trường bị ô nhiễm từ không khí, mặt đất, nguồn nước. Còn Đạo Phật thì chủ trương lặn sâu vào công huân tu tập đạt trạng thái thênh thang tự tại, hòa nhập thế giới đại đồng. Đạo Phật mang tính bình đẳng, dân chủ, tự do, chính đó là điểm sáng của đạo Phật. Con người sống mê muội tạo nghiệp thọ khổ thì sẽ không hiểu biết ý nghĩa đích thực cứu cánh của đời sống.

Nhân mùa Khánh Đản năm nay, người viết xin phác họa vài điều cần nhận biết về tính minh triết của Đạo Phật trong thế giới văn minh đương đại, để thấy tính ưu việt của Đức Phậtgiáo pháp của Ngài sẽ còn đóng góp rất lớn cho nền văn minh nhân loại đang gặp nguy hiểm bên bờ vực thẳm của sự hủy diệt.

Thiền Tự Trúc Lâm Viên Giác

Mùa Phật Đản PL. 2558
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1184)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1651)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1585)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1498)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 1086)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1477)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1416)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1338)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1393)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1717)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 1982)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1438)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 1096)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1432)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 2036)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1480)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1565)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1394)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2921)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1380)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1415)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1734)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1685)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1637)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1481)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2646)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1609)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1617)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1409)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1429)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1619)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1572)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1450)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1439)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1525)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2207)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1556)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1517)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1633)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1848)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1541)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1422)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1677)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1427)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1721)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2396)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1478)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 1968)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1685)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1765)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1624)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1959)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1693)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1445)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1737)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1588)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1558)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1341)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1256)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1304)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant