Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vai Trò Của Giới Luật Đối Với Đời Sống Tăng GiàĐạo Đức Xã Hội

12 Tháng Sáu 201407:01(Xem: 20414)
Vai Trò Của Giới Luật Đối Với Đời Sống Tăng Già Và Đạo Đức Xã Hội

VAI TRÒ CỦA GIỚI LUẬT
ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG TĂNG GIÀ
ĐẠO ĐỨC XÃ HỘI

Tâm Bình
blank

I. DẪN NHẬP

Giới luật là mạng mạch của Phật pháp. Giới luật còn là Phật pháp còn. Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta. Trong kinh Di Giáo, trước khi vào Niết bàn, đức Phật khuyên các thầy Tỳ kheo: Sau khi Như Lai diệt độ rồi, các Tỳ kheo phải lấy Ba-la-đề-mộc-xoa (Giới luật) làm Thầy cũng như ta còn tại thế. Nếu ta còn tại thếTỳ kheo các ông không y theo giới Ba-la-đề-mộc-xoa thì cũng như ta đã diệt độ.

Sau khi nghe đức Phật giải thích về việc tại sao phải cần chế giới luật, ngài Xá Lợi Phất thỉnh cầu đức Phật chế luật, đức Phật trả lời: “Hãy chờ! Như Lai sẽ biết thời.”

Khác với Điều răn được cho là mặc khải từ đấng gọi là God của các tôn giáo Thần khải (Kyto giáo, Hồi giáo, Ấn giáo, Do Thái giáo), buộc tín đồ phải tuân thủ một cách tuyệt đối (nhưng thực chất đó là những giáo điều phi lý, ràng buộc, làm mất hết tự do của con người, thậm chí khiến người ta phải chống đối nhau, gây đau khổ cho nhau - Phật giáo giáo gọi những giáo điều này là giới cấm thủ kiến hay tà kiến), Giới luật Phật giáo chỉ ra đời sau khi đức Phật thành đạo đã năm năm. Nghĩa là lúc đầu Tăng đoàn hoàn toàn trong sạch và vững mạnh, không có những nội kết bất hòa hay những cá nhân sống không phạm hạnh. Chỉ đến khi Tăng đoàn trở nên đông đúc thì bắt đầu phát sinh những tệ nạn. Để ngăn ngừa những tệ nạn đó, giúp Tăng đoàn phát triển và hòa hợp, giới luật đã ra đời.

Đức Phật không bao giờ tự chế ra giới luật theo ý riêng của Ngài. Ngài chế giới khi có một cá nhân hay tập thể nào đó trong Tăng có những việc làm gây phương hại cho sự tồn vong của chánh pháp, làm mất hòa hợp thanh tịnh trong Tăng đoàn hay những hành động khiến người đời chê bai. Có những trường hợp một điều khoản nào đó đã được chế nhưng vì trở ngại cho Tăng đoàn về phương diện nào đó, khi thưa lên Đức Phật, Ngài liền điều chỉnh hoặc hủy bỏ.

Giới luật Phật chế lại gồm hai phần, Thông giới và Biệt giới, nên nó không chỉ dành cho giới xuất gia mà dành cho tất cả mọi người, và cả loài vật nữa. Và đây là điểm đặc thù của giới luật Phật giáo.

II. KHÁI QUÁT GIỚI LUẬT PHẬT GIÁO

Đối với Phật giáo, giới luật giữ một vị trí thiết yếu trong Tam tạng giáo điển. Trong ba môn học Giới, Định, Tuệ thì Giới đứng đầu. Vì nhân giới sinh định, nhân định phát tuệ. Tuệ là mục đích sau cùng mà người tu theo đạo Phật phải đạt đến. Muốn đạt đến đó thì phải khởi đầu bằng nghiêm trì giới luật. Đó là điều mà chúng ta không thể làm khác được.

Giới luật theo kinh tạng Pàli được Đức Phật chế định rất giản dị, không chi li, hệ thống như những bộ luật sau này. Nhưng đây là tinh thần cốt lõi của giới luật. Trong Đại Kinh Xóm Ngựa, thuộc Trung Bộ 1, Đức Phật trình bày nguyên tắc sống của một thầy Tỳ kheo: “Sa môn! Sa môn! Này các Tỷ kheo, dân chúng biết các ngươi là vậy, và nếu các ngươi có bị hỏi ‘Các ngươi là ai’ các ngươi phải tự nhận ‘Chúng tôi là sa môn’. Này các Tỷ kheo, các ngươi đã được danh xưng như vậy, đã tự nhận là như vậy thời này các Tỷ kheo, các ngươi phải tự tu tập như sau: ‘Chúng ta phải thọ trìthực hành những phép tắc tác thành sa môn. Như vậy danh xưng này của chúng ta mới chân chánh và sự tự nhận này của chúng ta mới như thật và những cúng dường chúng ta thọ hưởng, y phục, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bịnh có kết qủa lớn, có lợi ích lớn cho chúng ta, và chúng ta xuất gia không thành vô dụng, có kết qủa, có thành tích’.”

Theo Thích Hạnh Bình, trong bài kinh này, đức Phật còn đưa ra bảy nguyên tắc làm nên một vị sa môn: Biết tàm qúy, thân hành thanh tịnh, khẩu hành thanh tịnh, ý hành thanh tịnh, mạng sống thanh tịnh, hộ trì các căn, chú tâm cảnh giác. Và ông kết luận, bảy nguyên tắc này về sau đức Phật hay các đại đệ tử Phật xây dựng và hình thành Luật tạng một cách chi tiếthệ thống.

Về thuật ngữ Giới Luật, tuy là một từ nhưng thật ra Giới và Luật có ý nghĩa khác nhau. Giới thuộc phần chỉ trì (tiêu cực), luật thuộc phần tác trì (tích cực). Giới do đức Phật chế định trong những hoàn cảnh cụ thể, luật là những quy định sinh hoạt trong Tăng đoàn, do đức PhậtTăng đoàn quy định.

Trước hết chúng ta nói về khái niệm giới luật. Theo Phạn ngữ, Giới luật có bốn nghĩa như sau:

Vinàya: Có nghĩa là điều phục, điều phục gì? Điều phục những sai trái của thân, khẩu, ý.
Pràtimoksa: Dịch là biệt giải thoát.
Sìla: Dịch là giới, là thanh lương, nghĩa là sự tươi mát. Còn có nghĩa là phẩm chất tốt đẹp của con người, là sự phòng hộ các căn. Tức nhờ sự phòng hộ của giới mà thân tâm trở nên tươi mát, an lạc, thanh tịnh.
Vinaya: Dịch là luật.

Tuy có bốn tên khác nhau, nhưng cùng chung một nghĩa nên ghép chung thành “giới luật”.

Trong bốn nghĩa trên thì Sìla và Pràtimoksa thuộc về giới, hai từ còn lại thuộc về luật.

Nói một cách chi tiết, Giới (sìla) là đề phòng những điều sai quấy và dừng chỉ mọi điều ác, cũng có nghĩa là “chỉ ác tác thiện”, tức là ngưng làm mọi điều ác, thực hành mọi hạnh lành.

Giới (Pràtimoksa - Ba- la- đề- mộc- xoa) ngoài nghĩa biệt giải thoát còn có nghĩa xứ xứ giải thoát hay tùy thuận giải thoát. Biệt giải thoátgiữ giới phần nào giải thoát phần đó, giữ giới nhiều thì giải thoát nhiều, giữ giới ít thì giải thoát ít. Tùy thuận giải thoát là tùy vào sự trì giới của hành giả bằng cách nào thì kết qủa theo đó mà thành tựu hữu vi hay vô vi. Pràtimoksa còn có nghĩa là trói buộc, giữ gìn, thúc liễm những hành động của thân, khẩu, ý không để tạo nghiệp ác.

Giới còn có nghĩa là điều phục, chế ngự, chế ngự bằng tỉnh giác, bằng tri kiến, bằng kham nhẫn, bằng tinh tấn làm cho ba nghiệp thanh tịnh. Giới luật, vì vậy, cũng đồng nghĩa với nếp sống đạo đức, nếp sống hướng thượng.

Thực ra, giới nguyên nghĩa là tự nhiên, thói quen. Như thế, giới vốn là thực tại với những quy luật vận hành rất tự nhiên và không mang một ý nghĩa đạo đức nào cả. Nhưng chúng ta vượt ra ngoài quy luật vận hành tự nhiên ấy, chúng ta hành động trái với quy luật thực tại chúng ta sẽ gặp trở ngại trên cuộc đời và trên con đường giải thoát. Tựa như một người ăn uống không bình thường sẽ bệnh tật, nếu làm hại kẻ khác sẽ bị pháp luật trừng trị. Như vậy, giới là một phương tiện ngăn chặn tội phạm, thuận theo cuộc sống tự nhiênquy luật xã hội.

Về phân loại giới thì có nhiều cách. Thứ nhất là phân loại thành Biệt giải thoát giớiBồ tát giới. Biệt giải thoát giới đã nói ở trên. Còn Bồ tát giới còn gọi Thông giới để phân biệt với Biệt giải thoát giới của hàng xuất gia, giới của hàng Thanh Văn. Giới Bồ tát được nói trong kinh Phạm Võng là những hành vi, những giới hạnh, những học pháp đưa đến thành tựu Bồ đề tâm, giải thoáttrở thành Phật.

Thứ hai, theo quan điểm Đại thừa, giới chia làm ba loại: Nhiếp luật nghi giới, Nhiếp thiện pháp giớiNhiêu ích hữu tình giới. Nhiếp luật nghi giới là giới dành cho từng bậc tu hành khác nhau, bao gồm giới tại giaxuất gia. Đó là năm giới, Bát quan trai giới, thập thiện giới, Sa di giới, Tỳ kheo giới, Thức xoa ma na, Tỳ kheo ni giới, Bồ tát giới. Nhiếp thiện pháp giớichuyên thực hành những hành vi thiện coi đó là trì giới. Nhiêu ích hữu tình giới là lấy mục đích lợi lạc chúng sanh làm giới.

Đứng về mặt tương đối, giới chia làm hai loại, giới Thế gian và giới Xuất thế gian. Giới thế gian là giới đưa đến qủa báo hữu lậu, đưa đến hưởng phước báu nhân thiên. Giới xuất thế gian là giới đưa hành giả đến qủa vô lậu, giải thoát khỏi tam giới.

Dựa vào căn cơnghiệp lực của chúng sanh, giới chia làm ba loại, giới bậc hạ, bậc trung và bậc thượng. Giới bậc hạ là giữ giớicầu danh lợi. Giới bậc trung là giữ giới vì mong cầu được phước đức cho riêng mình. Giới bậc thượng là giữ giớicung kính giới, tin vào giới và vì mục đích lợi tha.

Về khái niệm luật, đây là khái niệm rất rộng, nó liên quan đến những quy định về sinh hoạt của Tăng đoàn. Do đó, về ý nghĩa cũng giống như luật thế gian nhưng vì mục đích khác nên nội dung cũng khác. Mục đích của Phật đặt ra luật là để tạo điều kiện cho một Tỳ kheo, một Thích tử đạt đến an ổn Niết-bàn. Còn mục đích của luật thế gian là để lập trật tự cộng đồng, mang đến bình an cho xã hội. Luật trong Phật giáo (Vinàya) có nghĩa là điều phục, huấn luyện, đã huấn luyện thì phải có kỷ luật. Tất cả đều có luật là để huấn luyện việc làm. Nên điều phục nghĩa là điều phục tâm. Điều phục có hai phần là điều phục tập thể và điều phục cá nhân. Căn bản là tạo sự hòa thuận. Điều phục trong tập thể tăng đoàn là nhằm tạo sự hòa hợp thanh tịnh, đưa đến an lạc gọi là Tăng an lạc. Muốn vậy mọi hành vi, cử chỉ, ăn nói, đi đứng trong Tăng phải phù hợp với luật. Và nhờ luật này mới giải quyết những trường hợp sai phạm trong Tăng như trường hợp hai Tỳ kheo A-thấp-bà và Phú-na-bà-sa sống trong một tụ lạc qua hệ với thế tục khiến cho một người đức hạnh như Xá-lợi-phất đến đó khất thực mà không ai cúng, phải mang bình bát về không. Sau Phật biết được khiến các Tỳ kheo tác pháp đuổi hai vị ấy đi nơi khác. Điều phục cá nhân gọi là trừng trị những người ngoan cố, tức là điều phục những kẻ chưa điều phục và kẻ đã điều phục thì làm cho phát triển thêm.

Luật Phật chế định còn nói đến quan hệ giữa tập thể Tỳ kheo và người ngoài đời. Quan hệ như thế nào để không đánh mất phẩm hạnh của một Tỳ kheo.

Ngoài ra, luật còn quy định về pháp Yết- ma như An cư kiết hạ, truyền giớithọ giới, Tự tứ, thuyết giới, Bố tát (tụng giới). . .

II. VAI TRÒ CỦA GIỚI LUẬT

1. Vai trò của Giới luật đối với đời sống Tăng già

Giới luậtcon đường rèn luyện người xuất gia. Thực hành giới luậtthanh tịnh hóa thân tâm, nuôi dưỡng lòng từ bi và đạt đến giải thoát. Giới luật không phải là những giáo điều. Giới luật giúp chúng ta biết những suy nghĩ, lời nói, hành động nào giúp ta an lạc, và những tư tưởng, lời nói, hành động nào đưa đến khổ đau.

Do đó, giới luậtvai trò rất quan trọng trong hệ thống giáo lý Phật giáo. Giới là bước đi đầu trong năm bước đi: Giới, Định, Tuệ, Giải thoátGiải thoát tri kiến (tri kiến biết rằng đã giải thoát).

Đức Phật thuyết pháp 49 năm, giảng dạy vô số pháp môn tu, kinh điển để lại rất nhiều, nhưng tất cả lời dạy ấy không ra ngoài ba môn học Giới, Định, Tuệ. Mục đích của người xuất gia sau cùng là đạt đến trí tuệgiải thoát. Nếu không đạt đến trí tuệgiải thoát coi như đã phí một đời xuất gia học đạo.

Muốn như thế, trước tiên phải dùng giới luật kìm thúc thân tâm không để buông trôi theo dòng tục thế. Tâm chúng ta từ vô thủy đến nay đã huân tập biết bao phiền não tập khí nhiễm ô, nên chúng ta mới bị trôi lăn trong sanh tử, chịu nhiều nỗi khổ đau. Muốn thoát khỏi cảnh khổ lụy đoạn trường đó, chúng ta phải nương nhờ vào giới luật. Giới luật sẽ soi sáng, dẫn dắt chúng ta ra khỏi cảnh u tối mê mờ. Khi đã ra khỏi cảnh đó rồi, ta tiếp tục trau dồi thiền định làm lắng đọng thân tâm. Khi tâm lắng động thì trí tuệ hiển bày.

Ba đời mười phương chư Phật đều y vào trí Bát nhãthành Phật. Vậy muốn đạt đến Phật quả, chúng ta cũng phải có trí tuệ như Phật. Và lộ trình khởi đầu để đi đến đích tối hậu đó là giới. Chúng ta không thể nào đảo ngược trật tự này được. Dù đức Phật dạy ba môn học này có mối quan hệ mật thiết nhau, nhưng khi khởi sự tu tập không ai có thể bỏ qua giới mà có định, tuệ. Trong luật Trường hàng có nói “Phật dạy người xuất gia, năm hạ về trước ròng chuyên giới luật, năm hạ về sau mới được nghe giáo tham thiền”. Điều đó cho thấy vai trò của giới luật quan trọng biết bao.

Ngày nay, tại các nước phương Tây, do ảnh hưởng vật chất qúa nặng, các vị Thiền sư thường dùng các môn khoa học như tâm lý học, phân tâm học, huyền học... để gọi là bổ sung chỗ khiếm khuyết trong Phật giáo đối với thiền sinh khi hành thiền. Nhưng sự thật không có gì gọi là khiếm khuyết trong phương pháp tu tập của Phật như Thanissaro nói:

Con đường của đức Phật không phải chỉ có chánh niệm, các pháp hành thiền Chỉthiền Quán, nhưng bao gồm các Giới đức, bắt đầu bằng năm giới căn bản. Thật thế, các giới luật tạo thành bước đi đầu tiên trên con đường đó, con đường Giới-Định-Tuệ. Khuynh hướng ngày nay thường khinh rẻ năm giới luật nầy, cho rằng đó chỉ là các điều lệ của lớp giáo lý vỡ lòng bắt nguồn từ đời sống cổ xưa, không còn thích hợp cho nếp sống tân tiến hiện đại. Quan niệm đó đã bỏ sót vai tròđức Phật đặt ra cho giới đức: giới đức là phần căn bản của chương trình trị liệu vết thương trong tâm trí. Giới đức đặc biệt để dùng chữa trị hai thứ bệnh đã tạo ra mặc cảm tự ti: hối hận và chối bỏ.

Nhiều tăng sĩ ngày nay cảm thấy khó chịu khi phải hành trì giới luật, dù là khi thọ giới đã tiếp nhận giới rồi. Thật ra, giới luật, như trên đã nói, đâu có tính cách ràng buộcchúng ta phải khó chịu? Giới luật chỉ có công dụng bảo hộngăn ngừa những điều đưa đến khổ đau mà thôi. Những người cảm thấy khó chịu là vì, một là không hiểu giới luậtgiá trị của nó; hai là do buông lung tâm ý, chạy theo dục lạc tầm thường mà cho giới luật ràng buộc, từ đó cảm thây khó chịu. Đó là nguyên nhân dẫn đến thoái hoá trong Tăng đoàn Phật giáo. Từ đó cũng dẫn đến những phong trào đòi cách tân giới luật (nghĩa là bỏ bớt một số điều khoản và chỉnh sửa một số điều khoản). Lý do để một số vị đưa ra đề nghị đó là căn cứ vào câu nói của đức Phật trước khi ngài diệt độ: Sau khi Như Lai nhập diệt, các thầy Tỳ kheo có thể bỏ đi một số giới luật nhỏ. Nhưng Đức Phật không nói giới luật nhỏ đó là những giới điều nào. Do đó, chúng ta không có quyền bỏ bớt giới luật. Chúng ta không có đủ trí tuệ để xác định điều nào là điều nhỏ. Thậm chí phải thêm điều khoản là khác. Vì trong thời đại này, với đà phát triển của khoa học kỹ thuật như công nghệ thông tin, công nghệ truyền hình, hệ thống thông tin liên lạc ... và sự phong phú qúa mức về vật chất, từ đó làm nảy sinh những điều bất thiện mới. Chính vì thế Thiền sư Nhất Hạnh đã thêm vào giới bản những điều khoản mới như các giới luật khi sử dụng Internet, khi lái xe, khi nghe điện thoại ...

Một Tăng đoàn thanh tịnh hòa hợp không thể khônggiới luật. Ngay khi Tăng đoàn thanh tịnh hòa hợp nhưng có vài cá nhân không thanh tịnh thì đã làm cho đoàn thể xáo trộn “con sâu làm rầu nồi canh”; huống hồ là Tăng đoàn không giới luật thì còn gì là Tăng đoàn nữa. Tăng có nghĩa là đoàn thể hoà hợp. Cái làm nên sự hòa hợp đó là giới luật. Một Tăng đoàn không giới luật sẽ trở nên bạt nhược, cằn cỗi, không còn sức sống nữa.

Người thọ trì giới luật được Đức Phật ví như người mù mắt được sáng lại, như người nghèo gặp của báu. Phải chăng Đức Phật qúa đề cao vai trò của giới luật? Không. Đức Phật không bao giờ gạt chúng ta. Sở dĩ Ngài dạy như thế là vì Ngài muốn chúng ta giảm bớt khổ đau trong cuộc sống. Muốn được an lạc, mỗi người phải tuân theo một số nguyên tắc gọi là giới luật.

Không tuân giữ giới luật chẳng những mang lại khổ đau, gây mất hòa hợp trong Tăng đoànquả báo mình phải gánh chịu, tùy theo mức độ vi phạm nặng nhẹ. Phẩm Hạt Muối (kinh Tăng Chi) nói:

Một người dân đen đánh trộm một con dê của một nhà giàu, có thế lực có thể bị đánh đập đổ máu ngay tại chỗ và bị tù tội. Nhưng một đại quan của triều đình bắt trộm một con dê của nhà giàu, có thế lực ấy thì không bị đánh đập, cũng không bị tù tội. Ví như một nắm muối thả vào một hồ nước lớn hay con sông lớn thì độ mặn không đáng kể, nhưng nếu để nắm muối ấy vào một ghè nước thì độ mặn lại đáng kể. Cũng thế, cùng phạm một tội, với người tâm tư bủn xỉn, không tu tập Giới, Định, Tuệ thì kết quả có thể đi vào địa ngục; nhưng với người có tu tập Giới, Định, Tuệ, có từ tâm rộng rãi thì xem qua như kết quả không có (triệt tiêu).

Tuân thủ giới luật làm hành giả thận trọng hơn trong những hành vi thiện trong lời nóiviệc làm của mình. Sống trong sạch, phẩm hạnh tốt, phòng hộ các căn, chánh niệm tĩnh giác, đạt được sự thanh tịnh về thân, khẩu, ý.

Người hành trì giới luật còn đạt được năm lợi ích lớn như trong kinh Phật dạy: Tiền của dồi dào qua công việc làm đúng đắn; Tiếng lành đồn xa; Khi vào trong bất kỳ hội chúng nào, hoặc xã hội, hoặc giới thượng lưu, hoặc giới Bà- la- môn, hoặc gia chủ, hoặc những thành viên trong cộng đồng tôn giáo (Sa môn) … tâm vị ấy không sợ hãibối rối; Chết không sợ hãi; Sau khi chết, vị ấy được thác sanh vào cõi thiên giới.

Ta thấy qua kinh luật, Đức Phật luôn đề cao giới luật. Bởi giới luậtcon đường duy nhất đưa đến sức mạnh hòa hợp của Tăng đoànthành tựu trí tuệ giải thoát. Giới là phần đầu trong năm chi Phần, Giới, Định, Tuệ, Giải ThoátGiải Thoát Tri Kiến.

Giới Luật còn giúp chúng ta thực hiện tình yêu thương rộng lớn đối với tất còn chúng sanh. Nó được hiểu qua hai phương diện, một là không làm tổn hại tất cả sinh mạng, hai là cứu giúp tất cả sinh linh.

Giới luật vì thế là nguồn sinh lực bất tận, là thức ăn đây bổ dưỡng của Tăng già.

2. Vai trò của Giới luật đối với đạo đức xã hội

Giới luật Phật giáoluật pháp thế gian tuy khác mục đích, nhưng có cùng ý nghĩa như nhau. Đó là cải thiện con người cá nhân và ổn định xã hội.

Giới luật Đức Phật ít nhiều cũng lại có tương quan hệ với pháp luật thế gian như trường hợp Tỳ kheo Đàn-ni-ca trộm gỗ của vua bị phạt năm tiền thì phạm Ba-la-di. Giới luật Phật chế lại gồm cho cả hai giới xuất giatại gia, có Thông giới và Biệt giới. Có thể nói giới luật Phật giáo bao hàm tất cả luật pháp thế gian. Nhưng luật pháp thế gian lại không thể bao hàm được giới luật Phật giáo. Vì thế, giới luật Phật giáo chẳng những mang lại an lạc cho người xuất gia mà cả tại gia.

Chính vì vậy, giới luật Phật gíáo, ngoài việc nuôi dưỡng Tăng già, nó còn là nền tảng xây dựng đạo đức xã hội.

Theo Từ điển triết học, " Đạo đức là một trong những hình thài ý thức xã hội, một chế định xã hội thực hiện chức năng điều chỉnh hành vi của con người trong mọi lãnh vực của đời sống xã hội".

Vậy, đạo đứcvấn đề liên hệ đến giá trị tốt xấu, lành dữ của con người. Dựa vào các nguyên tắc đạo đức, con người điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với đạo lý xã hội. Và mục tiêu của sự điều chỉnh đó là nhằm manh lại hạnh phúc cho con người như Banzeladze từng nói:

“Vấn đề lý tưởng tối caoý nghĩa của cuộc sống thực chấtvấn đề hạnh phúc. Con ngườigiá trị cao nhất, là cơ sở, là ngọn nguồn của mọi giá trị, mọi thứ đều là phương tiện cho con người và cuộc sống của con người".

Tuy nhiên, có những nguyên tắc đạo đức không đáp ứng nhu cầu hạnh phúc của con người, hoặc chỉ có giá trị trong một giai đoạn. Nghĩa là không mang tính phổ quát. Chẳng hạn, ở những quốc gia Hồi giáo mà Kinh Koran được sử dụng làm Hiến pháp như Iran, một đứa bé lấy cắp một ổ bánh mì, có thể bị chặt tay. Hay như thời Trung cổ ở Châu Âu, ai nói điều gì trái với Cựu Ước và Tân Ước của Thiên chúa giáo sẽ bị tòa án Dị giáo của tôn giáo này đưa lên dàn hỏa thiêu sống!

Đạo đức Phật giáo được xây dựng trên nền tảng giới luật, mà giới luật đó được xác định là mang lại hạnh phúc đích thực cho con người; giới luật ấy lại ra đời từ thực tiễn đời sống. Chính vì vậy, nó mang giá trị phổ quát và hết sức thiết thực.

Một người Phật tử giữ gìn giới luật không phải là tuân thủ những giáo điều khô cứng mà giữ gìn giới luật là nhằm hướng thượng hành vi của mình, thanh lọc thân tâm, khiến anh ta dễ dàng nhận ra giá trị đích thực cuộc đời. Từ đó, mang đến niềm vui, tin yêu và hy vọng.

Trong khi hành trì giới luật mà anh ta không có hạnh phúc là anh ta đã lạc vào “giới cấm thủ”. Anh ta cần điều chỉnh lại cho phù hợp với tinh thần giới luật.

Nền tảng đạo đức Phật giáo trên phương diện giới luậtNăm giớiThập thiện giới.

Trước tiênNăm giới: không sát hại sinh mạng, không trộm cắp, không tà hạnh, không nói dối, không uống các chất gây say. Giữ được năm giới này coi như đã an định được xã hội. Những tội ác gây ra của con người đều là do không tuân thủ năm giới này. Người ta phạm tội gì? Giết người, cướp của, ngoại tình đưa đến đổ vỡ hạnh phúc gia đình, rượu chè say sưa gây ra những tội ác, nói dối gây chia rẽ, hận thù. Và những tội khác điều có liên hệ đến năm giới như cha con bất hòa, chiến tranh, tham ô hối lộ. . . Và người ta sợ hãi cũng chung quanh năm giới: Sợ bị giết hại, mất của, sợ người khác nói oan cho mình, sợ người bạn đời ngoại tình, sợ nghiện ngập, hút sách, sợ chiến tranh, sợ tù tội ... Nếu không còn ai gây ra những tội lỗi đó thì lấy gì sợ? Thế giới này có phải hòa bình an lạc vĩnh viễn không?

Nói về năm giới, một học giả Tây phương nhận định:

Năm giới này cho thấy 5 hướng chính mà người phật tử tự mình kiểm soát để ( hành trì ) tri hành. Đó là giới thứ nhất răn người phật tử kiềm chế nóng giận, giới thứ hai kiềm chế tham đắm vật chất, giới thứ ba kiềm chế nhục dục, giới thứ tư kiềm chế sự khiếp nhược và ác ý ( nguyên nhân không chân thật) và giới thứ năm kiềm chế lòng ham muốn các sự kích thích nhơ bẩn.

Thứ đến là Thập thiện giới: Thập thiện giới chia làm ba nhóm, thân: không sát sanh, không trộm cắp, không tà hạnh; khẩu: không nói lưỡi đôi chiều, không nói lời thêu dệt, không nói lời hung ác; ý: không tham lam, không sân hận, không si mê. Mười giới này là căn bản cho cả tại giaxuất gia. Nó còn gọi là Thập thiện nghiệp đạo. Hành trì mười giới này là đi đến giải thoát như trong kinh Tăng Chi III, Phật dạy: “Một người thực hành 10 điều bất thiện thì cuộc sống của họ là phi đạo đức đồng thời không đạt được mục tiêu hạnh phúc". " Này các Tỳ kheo, sát sinh, lấy của không cho, tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói lời phù phiếm, tham lam, sân hậntà kiến, đây gọi là phi pháp và phi mục đích”.

Trong ba nghiệp trên thì ý đứng đầu. Nó ẩn bên trong và chỉ đạo tất cả hành vi của thân, miệng. Vì vậy, Duy thức nói về ý: “công vi thủ, tội vi khôi” (Về công nó đứng đầu, về tội nó cũng chiếm vị trí số một). Do đó, đạo đức Phật giáo hướng dẫn con người tu tập hoàn thiện bản thân, xây dựng đạo đức xã hội chú trọng đến tâm nhiều hơn là thân.

Tóm lại, ba nghiệp thanh tịnh là góp phần làm cho xã hội thanh tịnh. Sự an lạc của xã hội tùy thuộc vào sự an lạc của tâm chúng ta. Xã hội này có đạo đức hay không là tùy thuộc mỗi chúng tahành trì giới luật hay không mà thôi.

IV. KẾT LUẬN

Giới luật Phật giáo mang giá trị phổ quát và thực tiễn. Giới luật ra đời do nhu cầu thực tế cùa đời sống. Giới luật không phải là giáo điều do một đấng quyền năng tạo ra. Nó ra đời là vì lợi ích của từng cá nhân, tạo điều kiện cho cá nhân đó đạt đến thánh quả và tạo sự hòa hợp thịnh tịnh trong Tăng đoàn.

Bất cứ thời nào và ở đâu, con người cũng có những nỗi khổ niềm đau, những thói hư tật xấu, tham lam, tranh chấp. Và mong ước tối hậu của con người là muốn mình có hạnh phúc an lạc. Vai trò của giới luật Phật giáo là làm thế nào để điều chỉnh hành vi con người hướng theo hướng tốt; đồng thời an định tập thể, xã hội.

Đối với người xuất gia, giới luật là để chúng ta chấp trì nhằm chế ngự, điều phục ba nghiệp của mình để đạn đến an lạc, giải thoát. Việc kêu gọi điều chỉnh giới luậtviệc làm cần chấm dứt. Phải hiểu bản chất giới luậtbảo hộ, nuôi dưỡng chúng ta. Lý tưởng của chúng ta là mong cầu giác ngộ, giải thoát thì không bao giờ xa rời giới luậtthành tựu được.

Đối với xã hội, giới luật nếu được áp dụng, chỉ cần trong Năm giớiMười giới thì xã hội sẽ được thái bình, con người sẽ hạnh phúc mãi mãi. Luật pháp loài người cho dù đạt đến mức hoàn chỉnh nhất cũng không thể nào ra ngoài phạm vi Năm giớiMười giới này. Nó là nền tảng của mọi hệ thống đạo đức.

Kim Liên tự, Xuân Quý Tỵ- 2013

Tâm Bình


TÀI LIỆU THAM KHẢO
  1. Thích Đỗng Minh dịch, Thích Nguyên Chứng, Thích Đức Thắng hiệu chính và chú thích.Tứ Phần Luật. http://quangduc.com/luat/51tuphanluat.html.
  2. Thích Minh Phước (dịch), Tứ Phần Luật Hàm Chú Giới Bổn, Hà Nội: NXB Tôn Giáo, 2006.
  3. Thích Hành Trụ, Sa- Di Luật Giải, Sài Gòn: Sen Vàng, 1972.
  4. Thích Đạt Dương (dịch), Thiền Môn Trường Hàng Luật, Sài Gòn: KNXB, 1970.
  5. Thích Tuệ Sỹ, “Những Khái Niệm Cơ Bản Về Luật,” Pháp Luân, (2006), số 28, 29 và 30, trang 28- 34, 35- 39 và 22- 27.
  6. Thích Tâm Minh, Khảo Cứu Về Văn Học Pàli, không nơi xuất bản: NXB. Phương Đông, 2006.
  7. Trần Phương Lan (dịch), Đức Phật Lịch Sử, Tp.HCM: Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, 1997.
  8. Thích Hạnh Bình, “Nền Tảng Xây Dựng Đời Sống Đạo Đức Theo Phật Giáo,” Tập Văn Phật Đản, (1992), không số, trang 35- 37 và 50.
  9. Thích Minh Thông, Đề Cương Luật Học Phật Giáo Đại Cương.
Ý kiến bạn đọc
11 Tháng Mười 201401:09
Khách
Như một lời nhắc nhở, đọc lại vẫn thấy hay và thực tế. Xin cám ơn tác giả.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1048)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1207)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1668)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1612)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1511)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 1100)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1495)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1441)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1349)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1407)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1740)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 2013)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1458)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 1115)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1448)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 2073)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1502)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1584)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1413)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2953)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1402)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1422)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1747)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1710)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1653)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1499)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2676)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1636)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1632)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1443)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1469)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1636)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1579)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1465)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1462)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1546)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2223)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1576)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1538)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1655)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1873)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1548)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1432)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1683)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1435)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1751)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2404)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1487)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 1985)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1710)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1774)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1644)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1974)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1707)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1469)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1744)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1598)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1579)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1360)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1277)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant