Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật Giáo Trong Xã Hội Hiện Đại

12 Tháng Bảy 201421:26(Xem: 8818)
Phật Giáo Trong Xã Hội Hiện Đại

Phật Giáo trong xã hội hiện đại

Ni sư Thubten Chodron
Lược dịch: Huệ Pháp

blank



Ứng dụng giáo lý Phật giáo trong xã hội hiện đại như thế nào?

Đây là khía cạnh quan trọng trong xã hội hiện nay. Thực hành giáo lý không phải chỉ là đến chùa đọc kinh hay niệm Phật mà chính là áp dụng giáo lý của đức Phật trong đời sống hàng ngày, trong mối liên hệ với gia đình, với bạn bè đồng nghiệp, với những người xung quanh trong cùng đất nước, và với những người khác ở những nước khác. Chúng ta cần đem giáo lý về tình thương của đức Phật đến với những người đồng nghiệp, những người trong gia đình, thậm chí những người ở cửa hàng tạp hóa hay trong phòng tập thể lực. Việc đem tâm từ đến với mọi người đó không phải là cách rải truyền đơn như những người cầm tờ rơi phát quảng cáo ở các ngã tư đường mà phải xuất phát từ chính bản thân chúng ta, chính chúng ta phải sống trong tinh thần từ bi đó, rồi mới áp dụng nó trong xã hội. Một khi, tâm từ xuất phát từ chính con tim của mình thì tự động sẽ ảnh hưởng một cách tích cực đến mọi người xung quanh. Ví dụ, chúng ta dạy con cái về lòng thương yêu, tha thứkiên nhẫn nhưng không chỉ là lời nói mà còn phải xuất phát từ hành động của chính mình, những đức tính chúng ta dạy cho con trẻ phải xuất phát từ chính lối cư xử của mình.

1. Dạy cho con tính thương người.

Nếu không cẩn thận, chúng ta sẽ dạy con trẻ nuôi dưỡng lòng hận thù, chúng sẽ không bao giờ tha thứ khi người khác xâm hại đến bản thân. Đôi khi bạn dạy cho con mình ghét một ai đó trong gia đình chỉ vì mình ghét người đó. Điều đó khiến cho con mình bị một chiếc hố ngăn cách với các thành viên còn lại trong gia đình. Đôi khi cũng có người dạy con cái của họ rằng, cách tốt nhất để giải quyết vấn đề tranh cãi với ai đó là không bao giờ nói chuyện với họ. Điều đó, theo bạn có giúp cho họ có được hạnh phúc và lòng thương người không? Hãy nghĩ một cách thấu đáo về điều này để đảm bảo rằng bạn chỉ dạy cho con mình những gì có giá trị, những gì là tốt nhất.

Một minh hoạ rõ ràng nhất chính là tự soi rọi ngay chính trong tâm mình. Một khi tâm oán hận, lòng căm thù, hay mối ác cảm khiến bạn đau khổ, lẽ nào bạn lại truyền những mối độc hại đó, những cảm thọ đau khổ đó cho đứa con yêu dấu của mình. Đừng bao giờ dạy cho con mình những cảm thọ khó chịu đó.

2. Mang tâm từ đến trường học

Chúng ta mang tâm thương yêu không chỉ trong gia đình mà còn trong môi trường giáo dục (trường học). Một điều rất quan trọng là trẻ con đến trường không chỉ thu thập về thông tin mà còn học cách làm người và cách giải quyết những vấn đề nan giải trong cuộc sống của chúng. Các bậc phụ huynh và thầy cô bỏ ra nhiều thời gian và tiền bạc để dạy cho con trẻ nào là các môn khoa học, văn học, địa lý, lịch sử, vi tính v.v... nhưng họ có bỏ chút thời gian nào để dạy cho con trẻ lòng thương người? Chúng tamôn học nào dạy về cách trao truyền lòng thương yêu chưa? Chúng ta có dạy cho trẻ cách đối diện với những cảm thọ tiêu cực và cách để giải quyết mối bất hòa một khi xảy ra giữa bọn trẻ với nhau? Tôi nghĩ điều này quan trọng hơn là những môn học tại trường. Tại sao? Trẻ em có thể biết rất nhiều nhưng khi chúng trưởng thành với tâm ác cảm, thù hận hay hám danh thì cuộc sống của chúng liệu có được hạnh phúc?

Các bậc phụ huynh đều luôn muốn cho con mình có được một tương lai xán lạn, nên nghĩ rằng con mình cần phải có nhiều tiền. Họ đầu tư cho con mình học những môn học để sau này có được một công việc tốt, làm ra nhiều tiền - như thể tiền là nguyên nhân đem lại hạnh phúc vậy. Khi một người sắp hấp hối, gần kề cái chết, ta không bao giờ nghe họ nói về kế hoạch kiếm tiền hay nói về số tiền mà họ đã kiếm được trong quá khứ, mà chỉ nghe họ hối tiếc về những gì họ đã làm sai trong cuộc đời của họ. Họ sẽ mong mọi người tha thứ cho những sai lầm mà họ đã làm. Nếu bạn muốn con của mình có được một tương lai tươi sáng thì không chỉ dạy cách kiếm tiền mà còn cách sống, cách đạt được hạnh phúc.

3. Dạy cho con biết cách chia sẻ.

Có những bậc phụ huynh cư xử theo lối này: khi con trẻ đi học về, chúng đòi cha mẹ mình mua những thứ mà bạn đồng lớp có, kiểu như: “Bố, mẹ, con muốn cái quần Jean này, con muốn đôi bông tai mới, con muốn cái mà thằng bạn con có…”. Rồi những bậc cha mẹ đó nói con trẻ như sau: “Những thứ đó không đem lại niềm vui thích nào đâu con, không đem lại hạnh phúc, con không cần thiết để có nó đâu”. Nhưng sau đó họ lại ra ngoài mua những thứ mà những người khác có cho mình, thậm chí những thứ trong nhà đã có và ít sử dụng. Trong trường hợp này, những gì họ nói và làm trái ngược nhau. Bạn nói con trẻ tập chia sẻ cho người khác nhưng bạn lại không bao giờ làm từ thiện, hay chia sẻ những thứ không dùng cho người nghèo hay những người cần. Có một số người, trong nhà họ có rất nhiều thứ mà họ rất ít khi hay hầu như không dùng tới nhưng không bao giờ cho người khác. Tại sao? Họ sợ rằng nếu cho đi, họ sẽ lại cần đến nó trong tương lai. Chúng ta không thực hành hạnh bố thí, chia sẻ nhưng lại dạy cho con cái của mình tập tánh chia sẻ. Cách đơn giản nhất cho việc dạy con trẻ lòng rộng lượng là bảo chúng cho đi những thứ không dùng hồi năm ngoái. Có rất nhiều người nghèo và họ rất cần những thứ đó để dùng, vì thế, điều này sẽ giúp cho chính chúng ta, cho con cái chúng ta thực tập hạnh chia sẻ này.

Một cách khác để dạy cho con cái mình lòng tốt là không mua những thứ mà chúng muốn. Thay vào đó, khuyên con mình nên dành dụm số tiền đó để làm từ thiện, cho người nghèo. Bạn có thể dạy cho con mình từ những ví dụ mà bản thân mình đã trải nghiệm, điều đó sẽ khiến con mình dễ hình dungdễ hiểu hơn.

4. Dạy cho con về cách đối xử với thiên nhiênsử dụng đồ tái chế.

Tiếp theo là dạy cho con mình về môi trường và các sản phẩm tái chế. Bảo vệ môi trường mà chúng ta cùng sống với mọi ngườivạn vật là cách thực tập lòng từ bi. Nếu ta phá hủy môi trường thì chúng ta gây hại đến cho người khác. Ví dụ, nếu chúng ta sử dụng nhiều đồ dùng sử dụng một lần rồi bỏ, không sử dụng lại thì chúng ta đã tặng những thứ đó cho thế hệ con cháu sau này. Con cháu chúng ta sẽ thừa kế đống rác khổng lồ đó. Tôi rất mừng khi thấy nhiều người sử dụng đồ tái chế và sử dụng lại những thứ không đáng vứt bỏ đi. Đó là một phần thực tập trong giáo lý Phật giáo. Chùa hay các trung tâm Phật giáo phải đi đầu trong việc bảo vệ môi trường và sử dụng đồ tái chế.

Đức Phật không trực tiếp chỉ dạy nhiều vấn đề phức tạp xảy ra trong cuộc sống hiện đại này như việc sử dụng đồ tái chế, bởi thời của Ngài, không có việc này. Nhưng Ngài đã dạy những phương phápchúng ta có thể áp dụng trong những tình huống xảy ra trong thời hiện đại. Những phương pháp này giúp chúng ta giải quyết được những vấn đề trong thời đại mới mà nó không tồn tại cách đây 2500 năm.

5. Những cái nghiện mới trong xã hội hiện đại.

Đức Phật đã trực tiếp dạy chúng ta về tác hại của các chất gây say và khuyên chúng ta không sử dụng các chất gây hại này. Thời đức Phật, chất gây say chính là rượu. Suy rộng ra, lời dạy của đức Phật còn khuyên không dùng các chất ma túy hay lạm dụng các chất an thần. Rộng hơn nữa, chú ý những thứ khiến chúng ta nghiện hay đam mê có trong cuộc sống hiện nay là truyền hình. Trong xã hội hiện đại này, con người rất dễ nghiện phương thức giải trí này. Ví dụ, sau khi đi làm về, chúng ta mệt và muốn thư giản. Làm gì để thư giản? Chúng ta ngồi xuống và bật truyền hình lên, ngồi trước máy vô tuyến hàng giờ đồng hồ và thiếp đi. Tiền nhân của chúng ta, những người đã đạt được giải thoát cứu cánh, không bỏ phí thời gian để xem vô tuyến hay các thú giải trí khác. Đôi khi, có những chương trình truyền hình nào đó đem lại sự tệ hại hơn là nghiện rượu và ma tuý, đó là những chương trình có những cảnh bạo lực, chết chóc. Chúng ta cần tránh cho con trẻ xem những chương trình độc hại như thế này. Cha mẹ phải lựa chọn những kênh truyền hình nào phù hợp với lứa tuổi của con mình.

Mua sắm cũng là một cái nghiện khác không kém phần quan trọng trong xã hội hiện nay. Có lẽ bạn sẽ ngạc nhiên khi nghe về điều này nhưng hoàn toàn đúng, các nhà tâm lý học đã nghiên cứu về cái nghiện shopping này. Một vài người nào đó, tâm trạng buồn chán, họ thích uống rượu hay dùng ma túy để giải sầu. Còn những người khác thì lại chọn cách khác, tới các trung tâm mua sắm, siêu thị để giải khuây. Họ mua những thứ mà có khi họ không cần tới, chỉ để vơi đi nỗi buồn. Họ đang cố quên đi nỗi đau trong tâm họ bằng cách mua sắm. Thậm chí, có người chỉ đến siêu thị, lang thang hàng giờ đồng hồ chỉ đề nhìn ngắm, rồi khi trở về nhà, tâm trạng cũng chẳng thể nào khá hơn.

Một cái nghiện khác là ăn quá nhiều hay ăn quá ít. Trong trường hợp này, để giải quyết nỗi buồn, người đó đã dùng biện pháp ăn uống. Tôi thường xuyên nói đùa rằng, “tam bảo” của người Mỹ là: xem ti vi, đi shopping và tủ lạnh (chứa thức ăn). Đó là ba thứ mà người Mỹ quy y (quay về và nương tựa)! Những thứ đó, chắc chắn không đem lại hạnh phúc nào cả mà còn khiến chúng ta thêm rắc rối. Nếu chúng ta có thể xoay chuyển “tam bảo” của người Mỹ thành Tam Bảo của Phật pháp (Phật - Pháp - Tăng) thì chúng ta sẽ có nhiều hạnh phúc hơn. Trong đời sống hằng ngày, việc thực tập những lời dạy của đức Phật có thể giúp chúng ta giải quyết được những tâm tư bất ổn của mình. Ví dụ, khi chúng ta mệt hay bị stress, chúng ta có thể thư giản bằng cách niệm danh hiệu của đức Phật hay lạy Phật. Trong khi niệm danh hiệu hay lạy Phật, chúng ta tưởng tượng đức Phật từ bi đang hiện diện trước mặt, hào quang của Ngài đang chiếu khắp thân thể của mình, xóa tan đi bao nhiêu nỗi phiền muộnmệt mỏi trong tâm. Vài phút sau, chúng ta sẽ cảm thấy thân thể trở lại cân bằng, đầu óc lại tỉnh táo. Cách thư giản này chắc chắn là rẻ và dễ dàng hơn là ‘quay về và nương tựa’ nơi ti vi, siêu thị và tủ lạnh.

Hãy thử một lần xem!!!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7597)
Thưa đồng bào Tây Tạng của tôi, cả ở trong và ngoài Tây Tạng, cùng tất cả những người thực hành theo truyền thống Phật giáo Tây Tạng, và hết thảy những ai có...
(Xem: 6121)
Một thời Thế Tôn ngự tại tịnh xá Kỳ Viên. Bấy giờ Thiên tử Rohitassa, biệt danh Xích Mã, dung sắc tuyệt diệu, vào lúc cuối đêm, đến chỗ Đức Phật, đảnh lễ dưới chân Ngài rồi kể rằng:
(Xem: 9986)
Khi nói một tâm thức trống không, thì nó trống không về cái gì? Tánh Không (Emptiness /Vacuité/sự Trống Không) phải chăng có nghĩa là...
(Xem: 7095)
Kinh điển của Ta nói nhiều vô lượng nghìn muôn ức, đã nói, hiện nói, sẽ nói… mà ở trong đó Pháp Hoa rất là khó tin, khó hiểu. Xa kín nhiệm sâu.
(Xem: 7333)
"Có bốn loại an lạc, nầy gia chủ, người gia chủ thọ hưởng các dục thâu hoạch được, tùy thời gian, tùy thời cơ khởi lên cho vị ấy. Thế nào là bốn ?
(Xem: 6991)
Trong bài viết này sẽ giới thiệu bảy loại vợ khác theo tinh thần Abidharma và các văn bản hệ Luật tạng hiện có trong Đại Tạng Kinh, đối chiếu với mười loại vợ theo Luật Tạng Bí-sô của văn điển Pāli và...
(Xem: 9362)
Ngài Huệ Năng (638-713) là một bậc cao Tăng của thiền lâm Đông Độ. Cuộc đời cũng như tư tưởng của ngài là nguồn chất liệu và xúc cảm thiêng liêng để hình thành nên...
(Xem: 5841)
Cái thái dương hệ, tinh hà vũ trụ kia, hợp rồi tan, tan rồi hợp. Tất cả cái này tạo thành quy luật của tồn tại, ảnh hưởng đến đời sống và địa cầu này.
(Xem: 7102)
Nói đến tái sinh, thường chúng ta nghĩ đến một thọ sinh mới. Một con người vừa chết và được tái sinh lại dưới các hình thức Trời, Ngườ,i Atula hay Súc sinhNgạ quỷ.
(Xem: 6527)
Mặc mũ giáp là tu hành Ba Thân: Pháp thân tánh Không, Báo thân ánh sáng các pháp, và Hóa thân như huyễn. Tu hành là dùng Chỉ Quán để...
(Xem: 6103)
Bát Chánh Đạo chính là con đường giúp ta thanh lọc tư tưởng, chuyển hóa tâm phiền muộn, khổ đau thành an lạc, hạnh phúc.
(Xem: 7163)
Trong cuộc sống, con người luôn chuẩn bị tâm thế để đối mặt với khổ đau. Khi khổ đau đến, hoặc chúng ta phải chịu đựng và quỵ ngã, hoặc...
(Xem: 14390)
TĂNG GIÀ THỜI ĐỨC PHẬT Thích Chơn Thiện Nhà xuất bản Phương Đông
(Xem: 20441)
Người học Phật có được một tài liệu đầy đủ, chính xác, đáng tin cậy, dễ đọc, dễ hiểu, dễ nhớ và dễ tra cứu khi cần...
(Xem: 9474)
Ngày nay nếu chúng ta có dịp đọc lại trong kinh tạng, sẽ thấy có rất nhiều tư liệu nói về Bồ-tát Quán Thế Âm.
(Xem: 7873)
Luận Hiển dương Thánh giáo 顯揚聖教論, tiếng Phạn là Ārya-śāsana-prakaraṇa-śāstra hay Prakaranaryavaca-sastra (Acclamation of the Scriptural Teaching/ Treatise of Acclamation of the Sagely Teaching),,,
(Xem: 8188)
Bát chánh đạo’ hay Tám con đường cao quý (八正道 - āryāstāngika-mārga/còn được gọi là "Trung Đạo") là một trong những nền tảng của toàn bộ lời dạy của Đức Phật.
(Xem: 7454)
Pháp ấn, tiếng Phạn dharma-mudrā, trong đó dharma là pháp, là những lời dạy của Đức Phật, và mudrā là dấu ấn, là khuôn dấu, là đặc chất, là tiêu chuẩn.
(Xem: 9377)
Khái niệm về Niết bàn (Nirvana) đã xuất hiện hơn 2500 năm. Xuyên qua nhiều thế kỷ, biết bao học giảtriết gia đã cố gắng để...
(Xem: 7463)
Nếu mỗi sự-vật là chẳng có tự tính, không cái gì có thể sinh hoặc diệt, vậy thì từ hoàn toàn đoạn trừ hoặc diệt tận cái gì mà kết quả là niết bàn?
(Xem: 7485)
Hai pháp có thể hiểu biết phải được thông suốt: danh và sắc; hai pháp có thể hiểu biết phải được tận diệt: vô minhái dục; hai pháp có thể ...
(Xem: 7671)
Giải thoát hay tánh Không thì không chỗ nào không có, nên bất cứ ở đâu chúng ta cũng có thể gặp nó.
(Xem: 9477)
Đức Phật dạy: “Tất cả đều do “tâm” tạo”, “Trong các pháp, “tâm” dẫn đầu, “tâm” làm chủ, “tâm” tạo tác tất cả,,,
(Xem: 8786)
Hôm nay chúng tôi nói "vào cửa Không" tức là đi sâu vào phần nội tâm. Trong nhà Phật, chúng ta thường nghe nói: "Kẻ phàm phu thì chấp thân, đạo sĩ thì chấp tâm".
(Xem: 7390)
Niết bàn được Đức Thế Tôn miêu tả là hai phương diện cho những người sống một đời sống đức hạnh trong sáng, thực hành giới hạnh dẫn tới ...
(Xem: 7962)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiênloài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập
(Xem: 7013)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ...
(Xem: 7672)
Đạo Phật từ Ấn Độ du nhập vào Việt Namhiện hữu với dòng lịch sử dân tộc gần 2000 năm.
(Xem: 9860)
Một trong những nhà lãnh đạo chính của phong trào Phật giáo Đại thừa tại Ấn Độ là đạo sư- tăng sĩ Long Thọ.
(Xem: 8285)
Trong tín niệm vãng sanh của một số truyền thống Phật giáo Bắc truyền, ở quá khứ cũng như hiện tại, đã căn cứ vào tình trạng nóng, lạnh từ thân thể...
(Xem: 8838)
Khi một người sắp chết, người ấy bắt đầu đánh mất sự kiểm soát ý thức của tiến trình tinh thần. Rồi đến lúc hành động và thói quen của người ấy bị ngăn trở với ký ức xảy ra.
(Xem: 7688)
Đức Phật là bậc đạo sư đầu tiên nhận thức được bản chất thực của bản ngã, rằng bản ngã không phải là một thực thể cụ thểtrường tồn,...
(Xem: 8825)
Muốn tâm an vui và có chánh kiến thì bình thường, ngoài việc làm phước chúng ta cần có thời gian học hỏi tu tập để có trí tuệ nhìn thấu lẻ vô thường và định tĩnh trước những cảnh bất như ý.
(Xem: 8634)
Thái độ tâm linh của đạo Phật không phải nằm trên bình diện siêu việt tính (plan transcendantal), nghĩa là không dính líu gì với đời sống này.
(Xem: 8002)
Lăng-già, Thập Nhị Môn Luận cũng như trong luận Thành Duy Thức có đề cập đến bốn loại duyên, từ đó có các pháp. Nhân duyên. Thứ đệ duyên. Duyên duyên.
(Xem: 9012)
Dược Sư, là danh hiệu đọc theo tiếng Hán, nguyên ngữ Sanskrit gọi là Bhaiṣajya-guru-vaiḍūrya-prabhā-rāja, hay ngắn gọn hơn: Bhaiṣajyaguru,
(Xem: 9433)
Đọc lịch sử Đức Phật ta vẫn còn nhớ, sau 49 ngày tham thiền nhập định dưới gốc cây Bồ đề bên dòng sông Ni Liên Thiền, khi sao Mai vừa mọc thì ...
(Xem: 8747)
Nếu chúng ta bước vào Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) [1] sau khi qua Lăng già (Laṅkāvatāra) Kim cang (Vajracchedika), Niết-bàn (Parinirvāṇa), hay ...
(Xem: 8884)
Tôn giả Angulimala[1] trước khi gặp Phật, là một kẻ sát nhân. Sau khi xuất gia, tôn giả tinh tấn tu tập, lấy phép quán từ bi làm tâm điểm trong việc tu tập của mình.
(Xem: 7228)
Mỗi khi đọc Lại-Tra-Hòa-La trong kinh Trung A Hàm 1 thì lúc nào tôi cũng liên tưởng đến nhân vật Siddharta trong tác phẩm Câu Chuyện Dòng Sông...
(Xem: 9185)
Giáo lýđức Phật giác ngộ dưới cội cây Bồ đềduyên khởiduyên khởi là nguyên tắc vận hành của cuộc đời, không phải do...
(Xem: 8603)
Khi một Bồ tát tu tập một đạo lộ với các mantras, phát bồ đề tâm theo phương diện tương đốibản chất của đại nguyện, Bồ tát phải ...
(Xem: 7894)
“Nói kinh Đại thừa vô lượng nghĩa xong, Đức Phật ngồi kiết già nhập trong định ‘Vô lượng nghĩa xứ’, thân tâm chẳng động.
(Xem: 9628)
“Sắc tức thị không, không tức thị sắc (Sắc tức là không, không tức là sắc) là câu kinh đơn giảnnổi tiếng nhất trong hệ Bát-nhã Ba-la-mật của Phật pháp.
(Xem: 10176)
Nguyên đề của sách là The Essentials of Buddhist Philosophy dịch theo tiếng Việt là Tinh hoa Triết học Phật giáo. Nguyên tác: Junjiro Takakusu, Tuệ Sỹ dịch
(Xem: 8771)
Nếu muốn hiểu đúng về nghiệp và tái sinh, ta phải quán sát chúng trong ánh sáng của vô ngã. Chúng phản ánh vô ngã khá sống động, tuy nhiên...
(Xem: 8384)
Con đường đưa đến giác ngộ, giải thoátNiết Bàn chính là Bát Thánh Đạo, Tứ Diệu Đế; và phần quan trọng nhất trong con đường này là Thiền định.
(Xem: 7639)
Bốn Sự Thật Cao Quý được các kinh sách Hán ngữ gọi là Tứ Diệu Đế, là căn bản của toàn bộ Giáo Huấn của Đức Phật và cũng là...
(Xem: 9340)
Thật ra Phật đã đau yếu từ ba tháng trước và đã khởi sự dặn dò người đệ tử thân cận nhất là A-nan-đà. Phật bảo A-nan-đà tập họp các đệ tử để...
(Xem: 7481)
Thế giới Pháp Hoa hay nhà cha vốn như vậy (Mười Như thị, phẩm Phương tiện, thứ 2), nghĩa là vốn có sẵn, cho nên sự trở về nhà nhanh hay chậm là tùy nơi chúng ta.
(Xem: 15353)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã trôi qua kể từ khi bậc Đạo Sư từ bi của chúng ta, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, giảng dạy ở Ấn độ.
(Xem: 7302)
Từ nơi bản thể tịch tĩnh của Đại Niết-bàn mà đức Thế-Tôn thiết định Sīla: học xứ, học giới,.. nên học xứ ấy là nghiệp dụng của bản thể...
(Xem: 8482)
Ngày nay, người ta tìm thấy bản Bát-nhã tâm kinh xưa nhất được chép bằng thủ pháp Siddham[1] (Tất-đàn) trên lá bối...
(Xem: 12243)
Đối với người tu tập thuần thành thì cái CHẾT thực sự không phải là chết Mà là con đường dẫn đến sự giác ngộ viên mãn.
(Xem: 7305)
Thiền sư Bạch Ẩn ngày còn nhỏ rất sợ địa ngục. Một lần, Nichigon Shonin, cao tăng thuộc phái Nhật Liên, đã đến giảng tại ...
(Xem: 11495)
Ở bài này, chỉ dựa trên cơ sở Kinh Nikaya để xác minh ý nghĩa lễ cúng thí thực vốn có nguồn gốc trong hai truyền thống Phật Giáo.
(Xem: 8317)
Thời Thế Tôn tại thế, các đệ tử tại gia cũng như xuất gia đa phần đều tu tập tinh tấn, dễ dàng chứng đắc các Thánh vị.
(Xem: 8042)
Đức Phật nói rằng khi Ngài nhìn ra thế giới ngay sau khi Giác ngộ, Ngài thấy rằng chúng sanh cũng giống như...
(Xem: 7911)
Thuở quá khứ xa xưa, có Bồ-tát Tỳ-kheo tên là Thường Bất Khinh. “Vì nhân duyên gì có tên là Thường Bất Khinh?
(Xem: 8923)
một lần, Ma Vương hóa trang thành một người đàn ông, rồi đến thưa hỏi Đức Phật...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant