Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đức Phật Từng Cảm Nhận Các Giác Cảm Đau Đớn

06 Tháng Sáu 201422:00(Xem: 7816)
Đức Phật Từng Cảm Nhận Các Giác Cảm Đau Đớn

Đức Phật từng cảm nhận các giác cảm đau đớn
Kinh Sakalika Sutta SN 3.18 - SN 4.13

(Bài Kinh Về Mảnh Đá: Tương Ưng Bộ Kinh 3.18 và 4.13)

Hoang Phong chuyển ngữ

Bài dưới đây là một trong loạt những bài thuộc chủ đề "Quan điểm của Phật Giáo đối với sự đau đớn và bệnh tật". Các bài trước đây là:

- Đức Phật thuyết giảng về sự đau đớn (Sallatha Sutta/Kinh về Mũi Tên/SN 36.6)
- Thái độ của người Phật Giáo đối với sự đau đớn (Ajahn Brahmavamso Mahathera)
- Cái chết là một thứ bệnh ung thư (Ajahn Liem)
- Y khoa cũng chỉ là phép luyện đan ( Khyentsé Rinpoché)
- Không nên trì hoãn sang ngày hôm sau (Eihei Dogen)

Dường như trong Kinh Tạng ít nhất có hai lần nhắc đến trường hợp Đức Phật từng cảm nhận các giác cảm đau đớn. Lần thứ nhất khi Ngài bị ám hại và một mảnh đá đã đâm vào chân khiến Ngài bị thương, và lần thứ hai khi Ngài bị trúng thực trước khi tịch diệt.

Trường hợp thứ nhất xảy ra khi Đức Phật cũng đã trọng tuổi. Lúc bấy giờ trong tăng đoàn có một người tên là Bồ-đề Đạt-đa (Devadatta) em họ của Đức Phật, bất đồng chính kiến với Ngài về một số giới luật. Đề-bà Đạt-đa yêu cầu Đức Phật phải ban hành các giới luật thật khắt khe đối với các người xuất gia: chẳng hạn như không được ngủ trong nhà (phải ngủ dưới gốc cây hay trong các túp lều che bằng lá cây rừng), không được nhận ăn khi có người mời (chỉ ăn những gì trong bình bát do chính mình khất thực), phải ăn toàn rau trái (không được ăn thịt cá), phải sống di động (không được sống bám vào một nơi cố định)... Đức Phật không hoàn toàn chấp thuận và đưa ra một giải pháp dung hòa hơn bằng cách chỉ chấp nhận cho tăng đoàn tuân thủ các điều luật ấy trong một số hoàn cảnh nhất định nào đó với mục đích tránh mọi hình thức cực đoan. Vào thời kỳ này tăng đoàn cũng đã lớn mạnh, nhiều nhóm bắt đầu sống trà trộn với sự sinh hoạt thế tục và bám vào những nơi đông dân cư, và do đó đã đánh mất đi ít nhiều truyền thống cũng như nguyên tắc của người tu hành là phải xa lìa thế tục. Trước tình trạng đó, Đề-bà Đạt-đa đã thuyết phục được một số tỳ kheo theo về với mình và lập ra một tăng đoàn riêng. Sự chia rẽ này có thể đã đưa dần đến các âm mưu ám hại Đức Phật.

Luật Tạng (Vinaya, tiểu phẩm Cullavagga VII, 3.9) có thuật lại câu chuyện về Đề-bà Đạt-đa đã lăn một tảng đá lớn từ trên dốc cao xuống phía Đức Phật và các đệ tử của Ngài ở bên dưới. Tảng đá lăn trệch sang một bên không trúng vào Đức Phật, thế nhưng cũng có một mảnh đá vỡ đâm vào chân khiến Ngài bị thương. Trong Tương Ưng Bộ Kinh (Samyutta Nikaya) có hai bài kinh nhắc đến sự kiện này và cả hai đều mang cùng một tựa như nhau là: Bài Kinh Về Mảnh Đá (Nakalika Suttta, SN 3.18 và SN 4.31). Dưới đây là bản chuyển ngữ của cả hai bài kinh trên đây và sau đó người dịch cũng sẽ xin mạn phép góp thêm vài lời ghi chú với mục đích cùng với người đọc suy tư và tìm hiểu thêm về hai bài kinh này.

1- Bài Kinh Về Mảnh Đá

(Sakalika Sutta SN 1.38)

(PTS: S i 27, CDB i 116)

Tôi từng được nghe như vầy:

Một lần Đấng Thế Tôn ngụ gần thành Vương Xá (Rajagaha) (xin lưy ý là Đức Phật luôn xa lánh các nơi đô thị, làng mạc cũng như các nơi sinh hoạt đông đúc, Ngài chỉ đi vào các nơi này để khất thực) tại khu vườn hươu Maddakucchi. Vào lúc bấy giờ Đấng Thế Tôn bị một mảnh đá đâm vào chân. Các giác cảm đau đớn cực độ trên thân xác xảy đến với Ngài - đau buốt, nhức nhối, gay gắt, khó chịu, mệt mỏi, bực bội - thế nhưng Ngài đã chịu đựng các sự đau đớn ấy một cách thật tỉnh giác (tỉnh thức/chánh niệm), minh mẫn (sampajeno/tinh tường), không một chút xao động. Ngài gấp mảnh y thượng làm tư để gối đầu (shanghati/còn gọi là tăng-già-lê, một loại áo ấm khoác bên ngoài) nằm nghiêng về bên phải, uy nghi trong tư thế của một con sư tử, chân này gác lên chân kia, thật tỉnh giácminh mẫn.

Bảy trăm nàng tiên (devata/nữ thiên nhân) trong đoàn Satullapa tỏa ánh hào quang chiếu sáng suốt đêm cả khu vườn hươu Maddhakucchi, họ đến gần Đức Phật vái chào và đứng sang một bên.

Sau khi đứng sang một bên và trước mặt Đấng Thế Tôn, một nàng tiên thốt lên như sau: "Ngài Cồ-đàm trầm tư chẳng khác gì một con long xà (naga)! Mỗi khi các giác cảm đau đớn hiện lên - đau buốt, nhức nhối, gay gắt, khó chịu, mệt mỏi, bực bội - thì tương tự như một con long xà, Ngài chịu đựng một cách thật tỉnh giác, minh mẫn, không một chút xao động!"

Một nàng tiên khác, trước mặt Đấng Thế Tôn lại thốt lên: "Ngài Cồ-đàm trầm tư chẳng khác gì một con sư tử! Mỗi khi các giác cảm đau đớn hiện lên - đau buốt, nhức nhối, gay gắt, khó chịu, mệt mỏi, bực bội - thì tương tự như một con sư tử, Ngài chịu đựng các sự đau đớn ấy một cách thật tỉnh giác, minh mẫn, không một chút xao động!"

Một nàng tiên khác, trước mặt Đấng Thế Tôn lại thốt lên: "Ngài Cồ-đàm trầm tư chẳng khác gì một ngựa giống! Mỗi khi các giác cảm đau đớn hiện lên - đau buốt, nhức nhối, gay gắt, khó chịu, mệt mỏi, bực bội - thì tương tự như một con ngựa giống, Ngài chịu đựng các sự đau đớn ấy một cách thật tỉnh giác, minh mẫn, không một chút xao động!"

Một nàng tiên khác, trước mặt Đấng Thế Tôn lại thốt lên: "Ngài Cồ-đàm trầm tư chẳng khác gì một con bò mộng vô song (đầu đàn)! Mỗi khi các giác cảm đau đớn hiện lên - đau buốt, nhức nhối, gay gắt, khó chịu, mệt mỏi, bực bội - thì tương tự như một con bò mộng vô song, Ngài chịu đựng các sự đau đớn ấy một cách thật tỉnh giác, minh mẫn, không một chút xao động!"

Một nàng tiên khác, trước mặt Đấng Thế Tôn lại thốt lên: "Ngài Cồ-đàm trầm tư chẳng khác gì một người khuân vác khoẻ mạnh! Mỗi khi các giác cảm đau đớn hiện lên - đau buốt, nhức nhối, gay gắt, khó chịu, mệt mỏi, bực bội - thì tương tự như một người khuân vác khoẻ mạnh, Ngài chịu đựng các sự đau đớn ấy một cách thật tỉnh giác, minh mẫn, không một chút xao động!"

Một nàng tiên khác, trước mặt Đấng Thế Tôn lại thốt lên: "Ngài Cồ-đàm trầm tư chẳng khác gì một người đã thuần thục! Mỗi khi các giác cảm đau đớn hiện lên - đau buốt, nhức nhối, gay gắt, khó chịu, mệt mỏi, bực bội - thì tương tự như một người đã thuần thục, Ngài chịu đựng các sự đau đớn ấy một cách thật tỉnh giác, minh mẫn, không một chút xao động!"

Một nàng tiên khác, trước mặt Đấng Thế Tôn lại thốt lên: "Hãy trông kìa, một tâm thần tập trung cao độ, một tâm thức buông xả tuyệt vời - không kìềm tỏa cũng không gượng ép. Trong tâm thức đó không một sự chuyển động tâm thần nào bị trấn áp hay đè nén. Bất cứ ai nếu không trông thấy được một vị tương tự như long xà, như sư tử, như ngựa giống, như bò mộng vô song, như một người khuân vác khoẻ mạnh, một con người thuần thục, thì phải chăng đó là một kẻ đáng bị trừng phạt, nếu không muốn nói là một kẻ đui mù?"

Kệ:

Các vị Bà-la-môn dù có học thuộc cả năm bộ kinh Vệ-đà,
Dù có tuân thủ một trăm năm khổ hạnh:
Thì tâm thức họ cũng không sao đạt được sự giải thoát đích thật.
Thấp kém từ bản chất, họ nào đạt đến bến bờ bên kia.

Vướng mắc trong tham lam,
Chỉ biết tuân thủ giới luật và thực thi nghi lễ,
[Dù có]sống một trăm năm khổ hạnh:
Thì tâm thức họ cũng sẽ chẳng bao giờ đạt được sự giải thoát đích thật.
Thấp kém từ bản chất, họ nào đạt đến bến bờ bên kia.

Này những kẻ ngạo mạn, không kiềm chế được mình,
Hỡi những ai xao lãng, chìm đắm trong vô minh,
Dù có chọn nơi hoang dã, sống cuộc sống không lo nghĩ,
Thì cũng chẳng bao giờ vượt thoát được lãnh địa của Ma Vương (Mara)

Thế nhưng nếu biết từ bỏ sự ngạo mạn, tập trung vào nội tâm mình,
Thực hiện được một tâm linh tỉnh thức trong bất cứ một cảnh huống nào:
Thì khi đó nếu chọn chốn hoang vu, sống cuộc sống không lo nghĩ,
Tất sẽ vượt thoát khỏi lãnh địa của Ma Vương.

2- Bài Kinh về mảnh đá

(Sakalika Sutta SN 4.13)

(PTS: S i 110, CDB i 203)

Tôi từng được nghe như vầy:

một lần Đấng Thế Tôn ngụ gần thành Vương Xá (Rajagaha). Vào lúc bấy giờ Ngài bị một mảnh đá đâm vào chân. Các giác cảm đau đớn cực độ trên thân xác xảy đến với Ngài - đau buốt, nhức nhối, gay gắt, khó chịu, mệt mỏi, bực bội - thế nhưng Ngài đã chịu đựng các sự đau đớn ấy một cách thật tỉnh giác, minh mẫn (sampajano), không một chút xao động. Ngài gấp mảnh y thượng làm tư để gối đầu và nằm nghiêng về bên phải, uy nghi trong tư thế của một con sư tử, chân này gác lên chân kia, thật tỉnh giáctinh tường.

Tên Hung Ác Ma Vương tìm đến bên Đấng Thế Tôn và xướng lên tiết thơ sau đây:

Ngài nằm đấy mơ màng, hay ngây ngất một vần thơ?
Mục đích đời mình phải chăng đã tiêu tan hết?
Cô đơn trong túp lều hẻo lánh,
Ngài ngủ vùi, sầu bi trên gương mặt?

[Đức Phật đáp lại:]

Ta nằm đây, không bàng hoàng,
Cũng chẳng ngây ngất một vần thơ!
Mục đích ta đã đạt, chẳng một chút sầu bi,
Thanh thản một mình ta trong túp lều trống vắng,
Thương chúng sinh, từ bi ăm ắp đáy lòng ta!

Kìa những kẻ mũi tên đâm vào ngực,
Tim đập dồn run lên trong hoảng hốt,
Nhưng vẫn cứ ngủ say, với mũi tên cắm trong tim.
Tại sao ta lại không ngủ được,
Khi tim ta, mũi tên kia không còn nữa?
Ta nằm nghỉ, nào có phải vì kinh hoàng đánh thức,
Lòng thanh thản, nào đâu kinh sợ một giấc nồng!
Ngày hay đêm lòng ta nào vướng bận,
Thế gian này, không một chút suy vong (không yếm thế khi nhìn vào thế gian).
Ta nằm đây thanh thản một giấc nồng.
Thương chúng sinh, từ bi ăm ắp đáy lòng ta!

Tên Hung Ác Ma Vương thất vọng và chán nản khi nhận thấy: "Thế Tôn nào có lạ gì ta, Đấng Toàn Năng quả có lạ gì ta nữa", và tức thời biến mất.

Vài lời ghi chú của người dịch

Một hình tướng cấu hợp của một cá thể luôn bị chi phối bởi quy luật tương liên và tương tác giữa mọi hiện tượng (pratityasamutpada). Trong lãnh vực tâm thần thì sự tương liên đó vận hành dựa vào sự "tiếp xúc" (phassa) giữa sáu giác quan (ngũ giáctâm thần) với ngoại cảnh. Sự "tiếp xúc" đó sẽ đưa đến các giác cảm trên thân xác và xúc cảm trong tâm thần của cá thể ấy, qua các thể dạng thích thú, đau đớn hay trung hòa.

Dù là một vị a-la-hán, một vị bồ-tát hay một vị Phật, thì khi nào vẫn còn mang hình tướng cấu hợp thì cũng sẽ vẫn còn cảm nhận được các giác cảm trên thân xác, thế nhưng trong tâm thức họ thì không có một xúc cảm nào hiện ra. Trong cả hai bài kinh trên đây đều cho thấy Đức Phậtbị thương nhưng không hề phát lộ một sự xao động hay đau đớn nào. Sự "tỉnh giác, minh mẫn, không một chút xao động" của Ngài nói lên một sự tập trung tâm thần cao độ và phản ảnh một tâm thức buông xả tuyệt vời. Trong sự thanh thản đó không có một "thoáng xúc cảm nào bị kiềm tỏa hay mang tính cách gượng ép, không có một sự chuyển động tâm thần nào bị trấn áp hay dồn nén". Đấy chính là sự yên lặng của một vị Phật: một sự yên lặng tuyệt đối, từ thân xác đến ngôn từ và cả trong tâm thức, tương tự như mặt đại đương mênh mông và phẳng lặng, không một gợn sóng lăn tăn cũng không một luồng nước ngầm trong đáy nước.

Hai bài kinh trên đây - tuy vẫn được gọi là kinh - thế nhưng không phải là những lời thuyết giảng của Đức Phật, mà thật ra chỉ là những sự diễn đạt của các đệ tử về sự buông xả và yên lặng bao la đó của Vị Thầy mình, nhằm để gửi gấm cho chúng ta hôm nay.

Qua bài kinh thứ nhất (SN 3.18) họ tạo ra một quang cảnh thật thiêng liêng khi trông thấy cảnh tượng Vị Thầy mình bị thương và nằm nghỉ đêm dưới một mái lều lợp lá giữa khu vườn hươu Maddhakucchi. Bảy trăm nàng tiên hiện ra đứng hầu chung quanh mái lều, hào quang của họ tỏa sáng cả khu vườn cho đến sáng. Chữ "nàng tiên" trong bản dịch là do chữ devadata mà ra. Trong tiếng Phạn, chữ deva có nghĩa là "nam thiên nhân", chữ devadata có nghĩa là "nữ thiên nhân", nếu căn cứ vào ý nghĩa trong kinh sách thì đấy là chư thiên tái sinh qua con đường cao cả nhất của sáu nẻo luân hồi (lục đạo/sadjagati), tức có nghĩa là các chúng sinh tinh khiết nhất sống trong cõi vô sắc giới (arupa dhatu). Dịch chữ devadatanàng tiên đồng thời cũng là cách dựa vào nền văn hóa quen thuộc của một số nước Á Châu. Trong các bản dịch sang các ngôn ngữ Tây Phương đã được tham khảo, thì chữ devadata được các dịch giả (Thanissaro Bikkhu, Bhikkhu Bodi, Michel Proulx,v.v...) giữ nguyên không dịch, bởi vì dường như là họ không tìm được một từ nào tương đương trong các ngôn ngữ "xa lạ" của họ (xem phu lục, và cũng xin nhắc thêm là Thanissaro Bikkhu và Bhikkhu Bodhi là hai nhà sư Theravada người Mỹ, và Michel Proulx là thiền sư người Pháp). Thậm chí có một bản dịch tiếng Pháp còn cho rằng chữ devadata thuộc "giống đực" tức là một nam thiên nhân (!). Trong bản dịch tiếng Việt của Hòa Thượng Thích Minh Châu thì chữ này được dịch là "quần tiên" trong trường hợp gọi chung, và "vị Thiên" trong trường hợp chỉ từng người (xem phụ lục).

Trở lại với bảy trăm nàng tiên đứng hầu Đức Phật suốt đêm thì chúng ta tất sẽ nhận thấy một chi tiết sau đây: thông thường trong các bài kinh ghi lại những lời thuyết giảng của Đức Phật thì các đệ tử tiến đến gần Ngài để vái chào, sau đó lùi lại và ngồi sang một bên. Trong bài kinh trên đây thì bảy trăm nàng tiên lùi lại và đứng sang một bên, họ không ngồi xuống như thường lệ mà đứng hầu suốt đêm và tỏa ánh hào quang sáng rực cả khu vườn.

Thật ra cách nay hơn hai mươi lăm thế kỷ, các khu vườn thời bấy giờ không phải là các công viên như ngày nay, mà thật ra chỉ là những khu rừng thưa có nhiều hươu nai sinh sống, chẳng hạn như khu vườn Maddakucchi trong hai bài kinh trên đây. Đức Phật xếp chiếc áo khoác ngoài làm tư để gối đầu và nằm xuống đất, chân này gác lên chân kia, dưới mái che của một chiếc lều không vách. Bảy trăm nàng tiên túc trực chung quanh. Rải rác trong khu vườn giữa đêm khuya còn có hàng ngàn đệ tử của Đức Phật cũng đang nằm mơ màng.

Bảy trăm quần tiên túc trực hướng nhìn vào sự tỉnh giác, minh mẫn, không một mảy may xao động của Đức Phậthết lòng thán phục. Họ không so sánh Đức Phật với một con long xà (naga/một loại rắn thần mà trước đây đã từng che chở cho Đức Phật đang ngồi thiền sau khi đạt được giác ngộ, giữa một cơn giông bão thật khủng khiếp đang trổi dậy), một con sư tử, một con ngựa giống, một con bò mộng, một người khuân vác, một con người thuần thục, mà đúng hơn là họ so sánh Ngài với đức tính của các con vật ấy cũng như của một người nhẫn nại và một người đã quen chịu đựng (sự yên lặng của con long xà, sự uy nghi của con sư tử, sự linh hoạt của một con ngựa giống, sức khoẻ của một con bò mộng, sự nhẫn nại của một người khuân vác, sức chịu đựng của một người thuần thục).

Nếu bài kinh thứ nhất nêu lên một quang cảnh thiêng liêng và những phẩm tính của Đức Phật thì trong bài kinh thứ hai một hung thần xuất hiện để phá khuấy Ngài trong đêm. Hung thần ấy chính là Ma Vương (Mara) hay Thần Chết, biểu trưng cho vô minh, tham lambám víu, đã hiện ra để nhạo báng và khinh miệt Ngài. Thế nhưng Đức Phật đã cho Ma Vương biết rằng thái độ của Ngài đối với sự đau đớn trên thân xác chỉ là sự thanh thản, an vui, không kinh sợ, cũng chẳng bàng hoàng. Ma Vương chấp nhận sự thất bại của mình và biến mất khỏi tâm thức Ngài.

Trong cả hai bài kinh có một chữ rất khó dịch, đó là chữ Pa-li sampajano. Bản tiếng Anh của Thanissaro Bikkhu dịch chữ này là alert (tỉnh táo), bản tiếng Anh của Bhikkhu Bodhi dịch là clearly comprehending (hiểu biết minh bạch), bản tiếng Pháp của Remy Zins dịch là vigilance (cảnh giác), bản tiếng Việt của Hòa Thượng Thích Minh Châu thì dịch là nhẫn chịu (?), riêng chỉ có bản tiếng Pháp của thiền sư Michel Proulx thì tỏ ra cẩn thận hơn cả, chẳng qua vì dịch giả này đã giữ nguyên chữ Pa-li sampajano và không dịch (xem phụ lục).

Chữ sampajano là một tĩnh từ, danh từ là sampajanna (tiếng Phạn là samprajanya). Trong chữ sampajanna có chữ janna là một chữ rất quen thuộc có nghĩa là trí tuệ. Chữ sampajano trên phương diện tổng quát có nghĩa là hiểu biết minh bạch, chính xáctinh tường. Trong bài chuyển ngữ trên đây xin được tạm dịch chữ này là minh mẫn. Chữ sampajano cũng thấy xuất hiện trong nhiều bài kinh khác do Đức Phật thuyết giảng, đặc biệt nhất là trong Bài Kinh Về Sự Tỉnh Giác (Sata Sutta/Kinh về Tâm Linh Tỉnh Thức hay Chánh Niệm..., SN 47.35) chữ này được hiểu như là sự quán nhận minh bạch, tinh tườngcảnh giác về vô thường)

Sở dĩ mạn phép dài dòng như trên đây là chỉ nhằm lưu ý người đọc rằng nếu muốn hiểu được một bài kinh, thì phải đặt bài kinh ấy vào bối cảnh của nó, tức là vào khung cảnh lịch sử, văn hóa, ngôn ngữtư tưởng của những người sống trong thung lũng sông Hằng cách nay hai mươi lăm thế kỷ. Đối với các kinh sách xuất hiện muộn - tức là các kinh sách Đại Thừa - cũng vậy, cũng cần phải hiểu theo từng thời đại và từng địa phương (chẳng hạn như các kinh sách đại thừa Ấn Độ của Long Thụ, Vô Trước, Thế Thân... vào các thế kỷ thứ II-IV; các kinh sách đại thừa và các bản dịch của Trung Quốc vào các thế kỷ thứ II-VII; các kinh Kim Cương Thừa trước tác vào các thế kỷ thứ VIII-X, v.v...)

Các tác phẩm của các dịch giả Trung Quốc như Pháp Hiển (thế kỷ thứ IV), Cưu-ma La-thập (thế kỷ IV-V), Huyền Trang (thế kỷ thứ VII)...và của các nhà sư hiện đại như Bhikkhu Bodhi, Thanassaro Bodhi, Michel Proulx, Thích Minh Châu... cũng chỉ là những nổ lực giúp chúng ta tìm hiểu những gì tinh túy trong các bài kinh đã được học thuộc và lưu truyền từ hơn hai mươi lăm thế kỷ trước. Nêu lên sự kiện này là nhằm nhắc nhở chúng ta phải cẩn thậnlưu ý đến các hình thức biến dạng của kinh sách có thể xảy ra xuyên qua ngôn từ, văn hóa, thời đại và địa phương, cũng như các ảnh hưởng phát sinh từ xúc cảm, quan điểm và khuynh hướng cá nhân của các người dịch.

Do đó các bài kệ trong hai bài kinh trên đây cũng có thể được hiểu như là những nỗ lực của những thế hệ người xưa nhằm truyền đạt và tồn lưu tư tưởng của Đấng Thế Tôn, có nghĩa là phản ảnh ít nhiều tính cách diễn đạt và cách tường thuật của họ. Tư TưởngTrí Tuệ của Đức Phật vượt lên trên các bài kệ - tức là các cách diễn đạt và tường thuật ấy - rất nhiều và rất xa. Hai bài kinh trên đây cũng thế, cũng chỉ là một sự cố gắng, một nỗ lực nhằm nói lên sự "yên lặng mênh mông" trong tâm thức của Đức Phật và sự "thanh thản vô biên" tỏa ra từ toàn thân Ngài trước sự đau đớn mang lại từ thân xác cấu hợp và vô thường của Ngài.

Nhiều năm sau sự kiện trên đây thì một lần nữa Đức Phật phải chịu thêm một sự đau đớn cuối cùng khi bị trúng thực sau một bữa ăn. Trong lần đau đớn cuối cùng này thì Ngài cũng không hề thốt lên một lời than vãn nào mà chỉ nói với các đệ tử đang ngồi chung quanh những lời dặncuối cùng thật trong sáng, chân tình và thiết tha (người đọc có thể xem thêm bài viết "Những lời cuối cùng của Đức Phật" trên Thư Viện Hoa Sen).

Sau hết là phần phụ lục dưới đây sẽ trích dẫn các bản gốc bằng tiếng Pa-li và các bản Việt dịch của H.T. Thích Minh Châu về hai bài kinh trên đây. Ngoài ra một bản dịch tiếng Anh và một bản dịch tiếng Pháp của mỗi bài kinh cũng sẽ được chọn để kèm theo, hầu giúp người đọc tham khảo thêm nếu cần.

Bures-Sur-Yvette, 28.04.14

Hoang Phong chuyển ngữ

PHỤ LỤC

A- Kinh Sakalika Sutta SN 1.38

1- Bản gốc tiếng Pa-li

Evaṃ me sutaṃ—​ ekaṃ samayaṃ bhagavā rājagahe viharati maddakucchismiṃ migadāye. Tena kho pana samayena bhagavato pādo sakalikāya khato hoti. Bhusā sudaṃ bhagavato vedanā vattanti sārīrikā vedanā dukkhā tibbā kharā kaṭukā asātā amanāpā; tā sudaṃ bhagavā sato sampajāno adhivāseti avihaññamāno. Atha kho bhagavā catugguṇaṃ saṅghāṭiṃ paññāpetvā dakkhiṇena passena sīhaseyyaṃ kappeti pāde pādaṃ accādhāya sato sampajāno.

Atha kho sattasatā satullapakāyikā devatāyo abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇā kevalakappaṃ maddakucchiṃ obhāsetvā yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhaṃsu. Ekamantaṃ ṭhitā kho ekā devatā bhagavato santike imaṃ udānaṃ udānesi: “nāgo vata, bho, samaṇo gotamo; nāgavatā ca samuppannā sārīrikā vedanā dukkhā tibbā kharā kaṭukā asātā amanāpā sato sampajāno adhivāseti avihaññamāno”ti.

Atha kho aparā devatā bhagavato santike imaṃ udānaṃ udānesi: “sīho vata, bho, samaṇo gotamo; sīhavatā ca samuppannā sārīrikā vedanā dukkhā tibbā kharā kaṭukā asātā amanāpā sato sampajāno adhivāseti avihaññamāno”ti.

Atha kho aparā devatā bhagavato santike imaṃ udānaṃ udānesi: “ājānīyo vata, bho, samaṇo gotamo; ājānīyavatā ca samuppannā sārīrikā vedanā dukkhā tibbā kharā kaṭukā asātā amanāpā sato sampajāno adhivāseti avihaññamāno”ti.

Atha kho aparā devatā bhagavato santike imaṃ udānaṃ udānesi: “nisabho vata, bho, samaṇo gotamo; nisabhavatā ca samuppannā sārīrikā vedanā dukkhā tibbā kharā kaṭukā asātā amanāpā sato sampajāno adhivāseti avihaññamāno”ti.

Atha kho aparā devatā bhagavato santike imaṃ udānaṃ udānesi: “dhorayho vata, bho, samaṇo gotamo; dhorayhavatā ca samuppannā sārīrikā vedanā dukkhā tibbā kharā kaṭukā asātā amanāpā sato sampajāno adhivāseti avihaññamāno”ti.

Atha kho aparā devatā bhagavato santike imaṃ udānaṃ udānesi: “danto vata, bho, samaṇo gotamo; dantavatā ca samuppannā sārīrikā vedanā dukkhā tibbā kharā kaṭukā asātā amanāpā sato sampajāno adhivāseti avihaññamāno”ti.

Atha kho aparā devatā bhagavato santike imaṃ udānaṃ udānesi: “passa samādhiṃ subhāvitaṃ cittañca suvimuttaṃ, na cābhinataṃ na cāpanataṃ na ca sasaṅkhā­raniggayhavā­rita­gataṃ. Yo evarūpaṃ purisanāgaṃ purisasīhaṃ purisaājānīyaṃ purisanisabhaṃ purisadhorayhaṃ purisadantaṃ atikkamitabbaṃ maññeyya kimaññatra adassanā”ti.

“Pañcavedā sataṃ samaṃ,
Tapassī brāhmaṇā caraṃ;
Cittañca nesaṃ na sammā vimuttaṃ,
Hīnattharūpā na pāraṅgamā te.

Taṇhādhipannā vatasīlabaddhā,
Lūkhaṃ tapaṃ vassasataṃ carantā;
Cittañca nesaṃ na sammā vimuttaṃ,
Hīnattharūpā na pāraṅgamā te.

Na mānakāmassa damo idhatthi,
Na monamatthi asamāhitassa;
Eko araññe viharaṃ pamatto,
Na maccudheyyassa tareyya pāran”ti.

“Mānaṃ pahāya susamāhitatto,
Sucetaso sabbadhi vippamutto;
Eko araññe viharamappamatto,
Sa maccudheyyassa tareyya pāran”ti.

2- Bản Việt dịch của H.T. Thích Minh Châu

Kinh Miếng Đá Vụn

Như vầy tôi nghe.

Một thời Thế Tôn ở tại Rājagaha (Vương Xá), tại vườn Nai (Maddakucchi)

Lúc bấy giờ, chân Thế Tôn bị miếng đá bể đâm phải. Cảm thọ Thế Tôn mãnh liệt. Thân cảm thọ khổ đau, nhói đau, nhức nhối, khốc liệt, không khoái tâm, không thích thú. Nhưng Thế Tôn chánh niệm tỉnh giác, nhẫn chịu, không phiền não.

Rồi Thế Tôn cho trải áo Sanghàti (Tăng-già-lê) xếp tư lại, nằm xuống phía hông bên phải như dáng điệu con sư tử, chân đặt trên chân, chánh niệm tỉnh giác.

Rồi bảy trăm quần tiên Satullapakàyikà, sau khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Maddakucchi, đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên.

Đứng một bên, một vị Thiên đọc lên lời cảm hứng này trước mặt Thế Tôn:

—Sa-môn Gotama thật là bậc Long tượng. Và với tư cách Long tượng, Ngài nhẫn chịu thân thọ khởi lên, đau khổ, nhói đau, nhức nhối, khốc liệt, không khoái tâm, không thích thú, Ngài chánh niệm tỉnh giác, nhẫn chịu, không có phiền não.

Rồi một vị Thiên khác nói lên lời cảm hứng này trước mặt Thế Tôn:

—Sa-môn Gotama thật là bậc Sư tử. Và với tư cách Sư tử, Ngài nhẫn chịu thân thọ khởi lên, khổ đau … không có phiền não.

Rồi một vị Thiên khác nói lên lời cảm hứng này trước mặt Thế Tôn:

—Sa-môn Gotama thật là Lương tuấn mã. Và với tư cách Lương tuấn mã, Ngài nhẫn chịu thân thọ khởi lên, khổ đau … không có phiền não.

Rồi một vị Thiên khác nói lên lời cảm hứng này trước mặt Thế Tôn:

—Sa-môn Gotama thật là bậc Ngưu vương. Và với tư cách Ngưu vương, Ngài nhẫn chịu thân thọ khởi lên, khổ đau … không có phiền não.

Rồi một vị Thiên khác nói lên lời cảm hứng này trước mặt Thế Tôn:

—Sa-môn Gotama thật là bậc Nhẫn nại Kiên cường. Và với tư cách bậc Nhẫn nại Kiên cường, Ngài nhẫn chịu thân thọ khởi lên, khổ đau … không có phiền não.

Rồi một vị Thiên khác nói lên lời cảm hứng này trước mặt Thế Tôn:

—Sa-môn Gotama thật là một bậc Khéo điều phục. Và với tư cách là một bậc Khéo điều phục, Ngài nhẫn chịu thân thọ khởi lên, khổ đau … không có phiền não.

Rồi một vị Thiên khác nói lên lời cảm hứng này trước mặt Thế Tôn:

—Hãy xem tâm của Ngài khéo được tu tập Thiền định và giải thoát, không có nổi lên, không có chìm xuống, mọi hành động được tác thành, không có ai kích thích. Ai có thể nghĩ mình đi ngược lại một Long tượng như vậy, một bậc Sư tử như vậy, một bậc Lương tuấn mã như vậy, một bậc Ngưu vương như vậy, một bậc Nhẫn nại Kiên cường như vậy, một bậc Nhiếp phục như vậy, trừ phi là một người mù.

Các vị Bà-la-môn,
Tinh thông năm Vệ-đà,
Dầu tu tập khổ hạnh,
Cho đến hàng trăm năm,
Tâm họ không có thể,
Chơn chánh được giải thoát.
Tự tánh quá hạ liệt,
Không đến bờ bên kia,
Bị khát ái chi phối,
Bị giới cấm trói buộc,
Dầu tu tập khổ hạnh,
Cho đến hàng trăm năm,
Tâm họ không có thể,
Chơn chánh được giải thoát.
Tự tánh quá hạ liệt,
Không đến bờ bên kia.
Ở đời không nhiếp phục,
Kiêu mạn cùng các dục,
Tâm không được an tịnh,
Không tu tập Thiền định.
Ở trong rừng cô độc,
Nhưng tâm tư phóng dật,
Vị ấy khó vượt khỏi,
Sự chinh phục tử thần.
Nhiếp phục được kiêu mạn,
Khéo tu tập Thiền định,
Tâm tư khéo an tịnh,
Giải thoát được viên mãn,
Ở trong rừng cô độc,
Tâm tư không phóng dật,
Vị ấy khéo vượt khỏi,
Sự chinh phục tử thần.

3- Bản dịch tiếng Anh của Thanassaro Bikkhu (1999)

I have heard that on one occasion the Blessed One was staying near Rajagaha at the Maddakucchi Deer Reserve. Now at that time his foot had been pierced by a stone sliver. Excruciating were the bodily feelings that developed within him — painful, fierce, sharp, wracking, repellent, disagreeable — but he endured them mindful, alert, & unperturbed. Having had his outer robe folded in four and laid out, he lay down on his right side in the lion's posture, with one foot placed on top of the other, mindful & alert.

Then 700 devatas from the Satullapa retinue, in the far extreme of the night, their extreme radiance lighting up the entirety of Maddakucchi, went to the Blessed One. On arrival, having bowed down to him, they stood to one side.

As she was standing there, one of the devatas exclaimed in the Blessed One's presence: "What a naga is Gotama the contemplative! And like a naga, when bodily feelings have arisen — painful, fierce, sharp, wracking, repellent, disagreeable — he endures them mindful, alert, & unperturbed!"

Then another devata exclaimed in the Blessed One's presence: "What a lion is Gotama the contemplative! And like a lion, when bodily feelings have arisen — painful, fierce, sharp, wracking, repellent, disagreeable — he endures them mindful, alert, & unperturbed!"

Then another devata exclaimed in the Blessed One's presence: "What a thoroughbred is Gotama the contemplative! And like a thoroughbred, when bodily feelings have arisen — painful, fierce, sharp, wracking, repellent, disagreeable — he endures them mindful, alert, & unperturbed!"

Then another devata exclaimed in the Blessed One's presence: "What a peerless bull is Gotama the contemplative! And like a peerless bull, when bodily feelings have arisen — painful, fierce, sharp, wracking, repellent, disagreeable — he endures them mindful, alert, & unperturbed!"

Then another devata exclaimed in the Blessed One's presence: "What a strong burden-carrier is Gotama the contemplative! And like a strong burden-carrier, when bodily feelings have arisen — painful, fierce, sharp, wracking, repellent, disagreeable — he endures them mindful, alert, & unperturbed!"

Then another devata exclaimed in the Blessed One's presence: "What a tamed one is Gotama the contemplative! And like a tamed one, when bodily feelings have arisen — painful, fierce, sharp, wracking, repellent, disagreeable — he endures them mindful, alert, & unperturbed!"

Then another devata exclaimed in the Blessed One's presence: "See a concentration well-developed, a mind well-released — neither pressed down nor forced back, nor with mental fabrication kept blocked or suppressed. Whoever would think that such a naga of a man, lion of a man, thoroughbred of a man, peerless bull of a man, strong burden-carrier of a man, such a tamed man should be violated: what else is that if not blindness?"

Five-Veda Brahmans, living austerely for 100 years: Their minds are not rightly released. Lowly by nature, they've not gone beyond. Overpowered by craving, bound up in precepts & practices, performing wretched austerities for 100 years: Their minds are not rightly released. Lowly by nature, they've not gone beyond. For one fond of conceit, there's no taming; for one uncentered, no sagacity. Though alone in the wilderness, if one lives heedlessly, one won't cross over, beyond Mara's sway. But having abandoned conceit, well-centered within, with right awareness everywhere fully released, alone in the wilderness, heedfully living, one will cross over, beyond Mara's sway.

4- Bản dịch tiếng Pháp của Michel Proulx

En une occasion, le Bhagavā séjournait près de Rājagaha, dans le parc aux cerfs de Maddakucchi. En cette occasion, il avait eu le pied percé par un éclat de roche. Intolérables étaient les sensations corporelles qui se développèrent alors en lui - douloureuses, violentes, aiguës, déchirantes, tourmentantes, désagréables - mais il les endurait, attentif et sampajāno, imperturbable. S'étant fait plier et étendre en quatre sa cape, il était étendu sur le côté droit, dans la posture du lion - un pied placé sur l'autre - attentif et sampajāno.

Alors, dans la profondeur de la nuit, 700 devatās de la suite de Satullapa, d'une beauté formidable, éclairant de leur radiance la totalité de Maddakucchi, vinrent trouver le Bhagavā. En arrivant, ils s'inclinèrent devant lui, puis se tinrent d'un côté.

Alors qu'il se tenait là, l'un des devatās s'exclama en présence du Bhagavā:

– Quel nāga que samana Gotama! Tel un nāga, lorsque les sensations physiques surgissent, douloureuses, violentes, aiguës, exténuantes, repoussantes, désagréables, il les endure avec attention, vigilance, et sans en être perturbé!

Alors une autre divinité s'exclama en présence du Bhagavā:

– Quel lion que samana Gotama! Tel un lion, lorsque les sensations physiques surgissent, douloureuses, violentes, aiguës, exténuantes, repoussantes, désagréables, il les endure avec attention, vigilance, et sans en être perturbé!

Alors une autre divinité s'exclama en présence du Bhagavā:

– Quel pur-sang que samana Gotama! Tel un pur-sang, lorsque les sensations physiques surgissent, douloureuses, violentes, aiguës, exténuantes, repoussantes, désagréables, il les endure avec attention, vigilance, et sans en être perturbé!

Alors une autre divinité s'exclama en présence du Bhagavā:

– Quel taureau sans pareil que samana Gotama! Tel un taureau sans pareil, lorsque les sensations physiques surgissent, douloureuses, violentes, aiguës, exténuantes, repoussantes, désagréables, il les endure avec attention, vigilance, et sans en être perturbé!

Alors une autre divinité s'exclama en présence du Bhagavā:

– Quel fort portefaix que samana Gotama! Tel un fort portefaix, lorsque les sensations physiques surgissent, douloureuses, violentes, aiguës, exténuantes, repoussantes, désagréables, il les endure avec attention, vigilance, et sans en être perturbé!

Alors une autre divinité s'exclama en présence du Bhagavā:

– Quel apprivoisé que samana Gotama! Et, ainsi que quelqu'un qui est apprivoisé, lorsque les sensations physiques surgissent, douloureuses, violentes, aiguës, exténuantes, repoussantes, désagréables, il les endure avec attention, vigilance, et sans en être perturbé!

Alors une autre divinité s'exclama en présence du Bhagavā:

– Que voilà une concentration bien développée, un esprit bien libéré: ni réprimé ni rengorgé, dans lequel les fabrications mentales ne sont ni bloquées, ni refoulées. Que quiconque pense qu'un homme qui serait un tel nāga, un tel lion, un tel pur-sang, un tel taureau sans pareil, un tel fort portefaix, un tel homme apprivoisé puisse devoir être violenté: qu'est-ce d'autre si ce n'est de l'aveuglement?

Même si les brahmanes des Cinq Vedas,
Pratiquent des austérités pendant cent ans,
Leur esprit n'est pas correctement libéré:
Basses natures n'atteignent pas lointain rivage.
Ceux-là s'embourbent dans l'appétence,
Enchaînés aux préceptes et aux pratiques,
Pratiquant d'âpres austérités pendant cent ans,
Leur esprit n'est pas correctement libéré:
Basses natures n'atteignent pas lointain rivage.

Pour celui qui aime la vanité, pas de maîtrise.
Pour celui qui est déconcentré, pas de sagesse.
Même seul au milieu de la nature, si négligent,
Il ne peut passer au-delà du royaume de Māra.

Ayant abandonné la vanité, bien concentré,
Avec un noble esprit, partout libéré:
Seul au milieu de la nature, dilligent,
Il peut passer au-delà du royaume de Māra.

Kinh Sakalika Sutta SN 4.13

1 Bản gốc tiếng Pa-li

Evaṃ me sutaṃ—​ ekaṃ samayaṃ bhagavā rājagahe viharati maddakucchismiṃ migadāye. Tena kho pana samayena bhagavato pādo sakalikāya khato hoti, bhusā sudaṃ bhagavato vedanā vattanti sārīrikā dukkhā tibbā kharā kaṭukā asātā amanāpā. Tā sudaṃ bhagavā sato sampajāno adhivāseti avihaññamāno. Atha kho bhagavā catugguṇaṃ saṅghāṭiṃ paññapetvā dakkhiṇena passena sīhaseyyaṃ kappesi pāde pādaṃ accādhāya sato sampajāno. Atha kho māro pāpimā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi:

“Mandiyā nu kho sesi udāhu kāveyyamatto,
Atthā nu te sampacurā na santi;
Eko vivitte sayanāsanamhi,
Niddāmukho kimidaṃ soppase vā”ti.

“Na mandiyā sayāmi nāpi kāveyyamatto,
Atthaṃ sameccāhamapetasoko;
Eko vivitte sayanāsanamhi,
Sayāmahaṃ sabbabhūtānukampī.

Yesampi sallaṃ urasi paviṭṭhaṃ,
Muhuṃ muhuṃ hadayaṃ vedhamānaṃ;
Tepīdha soppaṃ labhare sasallā,
Tasmā ahaṃ na supe vītasallo.

Jaggaṃ na saṅke napi bhemi sottuṃ,
Rattindivā nānutapanti māmaṃ;
Hāniṃ na passāmi kuhiñci loke,
Tasmā supe sabbabhūtānukampī”ti.

Atha kho māro pāpimā “jānāti maṃ bhagavā, jānāti maṃ sugato”ti dukkhī dummano tatthevantaradhāyīti.

2- Bản Việt dịch của H.T. Thích Minh Châu

Kinh PHIẾN ĐÁ

1) Như vầy tôi nghe.

Một thời Thế Tôn ở Ràjagaha (Vương Xá), tại Maddakucchi, vườn Nai (Migadaya).

2) Lúc bấy giờ, chân Thế Tôn bị phiến đá gây thương tích. Thế Tôn cảm xúc khốc liệt, toàn thân đau đớn, nhói đau, đau nhức mãnh liệt, không thích thú, không vừa ý. Và Thế Tôn chánh niệm tỉnh giác, nhẫn chịu không để tâmbuồn nản.

3) Rồi Ác ma đi đến Thế Tôn; sau khi đến, nói lên bài kệ này với Thế Tôn:

Sao Ngài uể oải nằm,
Hãy tìm thơ, tìm vận,
Phải chăng việc sai biệt,
Không chờ đợi Ngài làm,
Phải một mình cô độc,
Trên ghế giường nằm ngồi,
Với gương mặt ngái ngủ,
Sao Ngài ngủ như vậy?

(Thế Tôn):

Ta không uể oải nằm,
Không tìm thơ, tìm vận,
Mục đích ta đã đạt,
Đâu có sầu nuộn gì!
Ta nằm ngồi một mình,
Trên ghế giường vắng lặng,
Yên tĩnh ta nằm nghỉ,
Tâm từ thương chúng sanh.
Những kẻ ngực bị đâm,
Hổn hển tim dồn dập,
Vẫn tìm được giấc ngủ,
Dầu bị thương tích nặng.
Sao ta lại không ngủ,
Khi không bị thương tích,
Khi thức không âu lo,
Khi ngủ chẳng sợ hãi,
Ngày đêm không khởi lên,
Phiền não bận lòng ta?
Ta không thấy tai hại,
Một chỗ nào trên đời,
Do vậy ta nằm nghỉ,
Tâm từ thương chúng sanh.

4) Rồi Ác ma biết được: "Thế Tôn đã biết ta, Thiện Thệ đã biết ta", buồn khổ, thất vọng liền biến mất tại chỗ ấy.

3- Bản dịch tiếng Anh của Thanissaro Bikkhu (1999)

I have heard that on one occasion the Blessed One was staying near Rajagaha at the Maddakucchi Deer Reserve. Now at that time his foot had been pierced by a stone sliver. Excruciating were the bodily feelings that developed within him — painful, fierce, sharp, wracking, repellent, disagreeable — but he endured them mindful, alert, & unperturbed. Having had his outer robe folded in four and laid out, he lay down on his right side in the lion's posture — with one foot placed on top of the other — mindful & alert.

Then Mara the Evil One went to the Blessed One and recited this verse in his presence:

Are you lying there in a stupor, or drunk on poetry?

Are your goals so very few?

All alone in a secluded lodging, what is this dreamer, this sleepy-face?

[The Buddha:]

I lie here, not in a stupor, nor drunk on poetry. My goal attained, I am sorrow-free. All alone in a secluded lodging, I lie down with sympathy for all beings. Even those pierced in the chest with an arrow, their hearts rapidly, rapidly beating: even they with their arrows are able to sleep. So why shouldn't I, with my arrow removed? I'm not awake with worry, nor afraid to sleep. Days & nights don't oppress me. I see no threat of decline in any world at all. That's why I sleep with sympathy for all beings.

Then Mara the Evil One — sad & dejected at realizing, "The Blessed One knows me; the One Well-Gone knows me" — vanished right there.

4-Bản dịch tiếng Pháp của Michel Proulx

Evaṃ me sutaṃ:

En une occasion, le Bhagavā séjournait près de Rājagaha, dans le parc aux cerfs de Maddakucchi. En cette occasion, il avait eu le pied percé par un éclat de roche. Intolérables étaient les sensations corporelles qui se développèrent alors en lui - douloureuses, violentes, aiguës, déchirantes, tourmentantes, désagréables - mais il les endurait, attentif et sampajāno, imperturbable. S'étant fait plier et étendre en quatre sa cape, il était étendu sur le côté droit, dans la posture du lion - un pied placé sur l'autre - attentif et sampajāno.

Alors Māra le Mauvais alla le trouver et prononça cette strophe en sa présence:

Reposes-tu là hébété, ou bien enivré de poésie?
N'as tu pas plus d'objectifs à atteindre?
Seul dans un logis isolé,
Pourquoi somnoles-tu avec une tête endormie?


[Le Bouddha:]

Je ne repose ni hébété, ni enivré de poésie.
Ayant atteint mon objectif, je suis libéré du chagrin.
Seul dans un logis isolé je repose,
Rempli de compassion envers tous les êtres.

Même ceux qui ont une flèche dans la poitrine
Perçant leur cœur moment après moment,
Même eux parviennent à dormir avec leur flèche.
Alors pourquoi ne pourrais-je pas parvenir à dormir,
Moi dont la flèche a été retirée?

Je ne repose pas éveillé par la terreur
Ni ne suis effrayé par le sommeil.
Jours et nuits ne m'affectent pas
Je ne vois pour moi aucune menace de déclin dans le monde.
C'est pourquoi je peux dormir en paix,
Rempli de compassion envers tous les êtres.

Alors Māra le Mauvais, triste et déçu, réalisant: 'Le Bhagavā me connaît, le Sublime me connaît', s'évanouit aussitôt.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1535)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
(Xem: 1668)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1638)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 1041)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1521)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1503)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1681)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1948)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1539)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1365)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1374)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1563)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1153)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1274)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1290)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1700)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1651)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 3015)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1828)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1368)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1222)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1281)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1415)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1327)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1926)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1695)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1898)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1828)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2397)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1787)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2135)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2241)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2306)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1860)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1982)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 2037)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1961)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 2599)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1952)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1896)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1954)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1900)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2173)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2320)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 1991)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2104)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1889)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1916)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2425)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2330)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 4010)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2500)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3206)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2486)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2054)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1804)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3317)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2351)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 3037)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant