Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vài Suy Nghĩ Về Ý Nghĩa Đức Phật Chế Bát Kỉnh Pháp

12 Tháng Giêng 201610:46(Xem: 8978)
Vài Suy Nghĩ Về Ý Nghĩa Đức Phật Chế Bát Kỉnh Pháp

VÀI SUY NGHĨ VỀ Ý NGHĨA
ĐỨC PHẬT CHẾ BÁT KỈNH PHÁP

HT Thích Quang Đạo

Vài Suy Nghĩ Về Ý Nghĩa Đức Phật Chế Bát Kỉnh Pháp

 

Hiện nay, giới nghiên cứu Phật học đang lưu tâm đến vấn đề: “Bát kỉnh pháp do Đức Phật chế ra hay do người sau thêm vào trong Tam tạng giáo điển?”. Để hiểu rõ vấn đề này, chúng ta sẽ nghiên cứu từng kỉnh pháp và liên hệ với bối cảnh mà Bát kỉnh pháp ra đời.

1. Tỳ-kheo-ni dù 100 tuổi hạ cũng phải đảnh lễ một Tỳ-kheo vừa mới thọ giới một ngày.

Kỉnh pháp đầu tiên này, mới nhìn qua ta thấy Đức Phật bất bình đẳng đối với Ni giới, nhất là quý Ni trưởng, Ni sư. Nhưng trên thực tế, nếu bất cứ Tỳ-kheo-ni nào chí thành thực hiện với lòng tịnh tín và tâm hoan hỷ sẽ có những lợi ích như sau:

Về mặt tự lợi: Sẽ giúp các Tỳ-kheo-ni tiêu trừ tâm chấp ngã và thăng hoa đời sống tâm linh, hướng đến Niết-bàn an lạc (vì vô ngã là Niết-bàn).

Về mặt lợi tha: Việc tuân giữ kỉnh pháp này của chư Ni sẽ là điều cảnh tỉnh các Tỳ-kheo, đặc biệt là tân Tỳ-kheo, luôn phải biết quán chiếu tự thân, tu tập để làm sao xứng đáng với sự cung kính của chư Ni.

Các Tỳ-kheo-ni trưởng thượng, nếu tuân thủ một cách nghiêm ngặt kỉnh pháp này thì đối với chư Ni, nhất là những vị Ni trẻ, sẽ là một tấm gương sáng để các Ni noi theo, áp dụngtu tập đúng đường lối Đức Phật chỉ dạy thì chắc chắn sẽ hoạch thu được nhiều lợi ích.

Về mặt Tăng đoàn thì kỉnh pháp này được xem là bức tường thành kiên cố, góp phần ngăn cản những bất thiện pháp có thể xảy ra giữa hai bộ Tăng Ni, nhất là những Tăng Ni trẻ tuổi.

2. Tỳ-kheo-ni không được an cưmột trú xứ không có chư Tăng.

Kỉnh pháp này được chế định là vì lợi ích trực tiếp cho Tỳ-kheo-ni. Dù trong thời Đức Phật hay thời hiện tại, sự sinh hoạttu tập của Ni đoàn nếu được Tăng đoàn bảo hộ đúng như pháp sẽ góp phần an ổnlợi ích cho chư Ni trên lộ trình hướng đến giải thoát. Có ý kiến cho rằng, thời nay chư Ni đã có chùa, am, tịnh xá, tịnh thất…, đã có cửa đóng then gài, hoặc đã thuê được bảo vệ canh gác… thì không cần đến sự bảo hộ chư Tăng. Ý kiến này mới nghe qua có vẻ phù hợp, nhưng để tâm hơn vào nội dung tu tập của Tăng đoàn thì có điểm không hợp lý. Bởi vì sự bảo hộ ở đây không phải chỉ bảo hộ thân mạng, tài sản vật chất mà còn cả sự tu hành của chư Ni. Chẳng hạn như trong đại chúng Ni có xảy ra một sự cố bất như ý, làm mọi người phiền não; nội bộ Ni đôi khi bất lực trong việc xử lý thì phải nhờ đến sự can thiệp của Đại Tăng. Và chính nhờ tài đức của Đại Tăng sẽ góp phần ổn định cho sự sinh hoạt của Ni chúng. Vấn đề này từ xưa đến nay, thực tế đã xảy ra.

3. Mỗi nửa tháng đến ngày bố-tát, Tỳ-kheo-ni phải đến Đại Tăng cầu giáo giới.

Kỉnh pháp này được chế định cũng vì lợi ích thiết thực cho Tỳ-kheo-ni. Thời Đức Phật tại thế, Ngài giao trách nhiệm giáo giới chư Tỳ-kheo-ni cho những vị Trưởng lão Tỳ-kheo có uy tín. Thời nay những vị giáo thọ đi giáo giới chư Ni, hoặc do chư Ni thỉnh đích danh, hay do Đại Tăng đề cử thì phải đủ 10 điều kiện: Một là phải đủ 20 tuổi hạ, hai là giới luật phải vẹn toàn, ba là kiến thức phải rộng rãi, bốn là phải thông suốt hai bộ luật Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni, năm là quyết đoán rành mạch các vấn đề liên quan đến Giới luật, sáu là xuất thân từ một gia đình nề nếp, bảy là dung nghi đoan chánh, tám là thuyết pháp giỏi, chín là có khả năng thuyết pháp khiến mọi người hoan hỷ, mười là chưa từng phạm các trọng giới(Luật học tinh yếu, HT.Thích Phước Sơn biên soạn). Chư Ni được các vị giáo thọ hội đủ những điều kiện như trên giáo giới thì chắc chắn sẽ khai mở nhiều điều vướng mắc trong sinh hoạt cũng như tu tập. Chính vì mang lại nhiều lợi ích thiết thực như thế nên Đức Phật chế chư Ni phải đến Đại Tăng cầu giáo thọ trong ngày bố-tát.

4. Sau mùa an cư, chư Tỳ-kheo-ni phải đến cầu xin tự tứ với nhị bộ Tăng Ni.

Tự tứ có nghĩa là tùy hỷ thỉnh cầu, nghĩa là sau ba tháng an cư, đến giờ tự tứ, hành giả quỳ trước Đại Tăng để phát lồ (nói ra) những cái hay dở, tốt xấu… của mình, và cầu thỉnh Đại Tăng chỉ bảo cho mình ba việc: Thấy, nghe, nghi tội. Khi được Đại Tăng chỉ bảo xong, mình vui mừng đảnh lễ và xem Đại Tăng là bậc thiện tri thức đã trợ duyên cho mình tiến tu đạo giải thoát. Sau khi phát lồsám hối nghiệp chướng xong, tâm của hành giả tràn đầy hoan hỷan lạc. Đây là pháp hành giúp Tăng đoàn có sự tiến bộ tâm linh trong tinh thần thanh tịnhhòa hợp. Điều này vô cùng lợi ích cho chư Ni, giúp chư Ni đề đạt và thỏa mãn được những nguyện vọng chính đáng của mình giữa hai bộ Tăng Ni. Đây là truyền thống tốt đẹp, mang lại nhiều ích lợi cho chư Ni nên Đức Phật đã chế kỉnh pháp này.

5. Vị Ni phạm tội Tăng tàn phải đến trước nhị bộ Tăng Ni cầu xin hành pháp Ma-na-đọa trong nửa tháng.

Kỉnh pháp này giúp chư Ni phục hồi sự thanh tịnh cho một người phạm tội, giúp vị ấy trở lại sinh hoạt trong Tăng đoàn, dưới sự chứng minh của nhị bộ Tăng Ni. Lời dạy dỗ của vị giáo thọ đại diện Tăng đoàn có thể hướng dẫn và truyền trao kiến thức cho những Ni phạm tội nói riêng, đồng thời gián tiếp giáo giới chư Ni nói chung, cố gắng tu hành, đừng để vướng vào những tội như vậy. Bởi vì khi đã phạm tội thì tự thân đã đánh mất nhân cách, thương tổn phạm hạnh…, lại còn làm phiền đến chư tôn đức trưởng thượng trong nhị bộ Tăng Ni thì mình bị hao tổn phước đức rất lớn. Chính vì vậy, Đức Phật đã chế kỉnh pháp này.

6. Thức-xoa-ma-na tuân giữ sáu giới trong hai năm, muốn thọ Tỳ-kheo-ni phải đến trước nhị bộ Tăng Ni cầu xin.

Theo thiển ý, “Thức-xoa-ma-na tuân giữ sáu giới trong hai năm” được Đức Phật bổ sung vào kỉnh pháp này, khi Ni đoàn phát triển đông đảo. Bởi khi Đức Phật trao Bát kỉnh pháp cho Di mẫu Kiều Đàm thì chỉ có “muốn thọ Tỳ-kheo-ni phải đến trước nhị bộ Tăng Ni cầu xin”. Nhưng về sau, khi Ni đoàn được thành lậptrở thành tổ chức đầu tiên thể hiện sự bình đẳng cho giới nữ thì từ giai cấp vương tộc cho đến bình dân hạ tiện, giới nữ theo Đức Phật xuất gia đông đảo, lại xảy ra một trường hợp đặc biệt được ghi trong Luật tạng như sau: Có một phụ nữ xin gia nhập Ni đoàn mà không biết mình đang mang thai. Do trường hợp đặc biệt này, cô được phép vẫn giữ nếp sống của một Tỳ-kheo-ni để sanh con. Cô phải chịu nhiều trở ngại trong việc sinh hoạt của người vừa làm mẹ, vừa làm Nữ khất sĩ. Một hôm, vua Ba-tư-nặc đi ngang qua tịnh xá của cô ở, nghe đứa bé khóc la, vua ngạc nhiên dừng ngựa rồi đi vào tịnh xá nên biết được sự việc này, vua rất đau lòng và xin đứa bé mang về cung để nuôi dưỡng, đồng thời đem sự việc này trình bày với Đức Phật. Để tránh cho việc này không xảy ra trong Ni đoàn, Đức Phật đã thêm “Thức-xoa-ma-na tuân giữ sáu giới trong hai năm” bổ sung và hoàn thiện kỉnh pháp này. Chúng ta đã biết nguyên tắc chế giới của Đức Phật là “tùy phạm tùy chế”, việc bổ sung và hoàn thiện kỉnh pháp này cũng không ra ngoài điều lệ đó. Kỉnh pháp này sau đó trở thành điều kiện tiên quyết xác định người nữ đủ tiêu chuẩn xin thọ giới Tỳ-kheo-ni.

Còn việc “muốn thọ Tỳ-kheo-ni phải đến nhị bộ Tăng Ni cầu xin” cũng là vì lợi ích của Tăng Ni nhị bộ nên Đức Phật mới chế định. Tăng đoàn được thành lập trước Ni đoàn 8 năm, và trong đoàn thể ấy có rất nhiều vị đệ tử của Đức Phật là những bậc thượng thủ đã chứng quả A-la-hán, có đủ uy đức để dạy dỗ chư Ni. Ni đoàn thành lập sau, cho nên việc chư Ni nương vào và thông qua Đại Tăng để được thanh tịnh thọ giới Tỳ-kheo-ni là một việc hoàn toàn lợi ích. Vả lại, bối cảnh xã hội trọng nam khinh nữ, phân biệt giai cấp của đất nước Ấn Độ lúc đó, nếu Ni đoàn không nương tựa vào Tăng đoàn thì sẽ không thể tồn tại.  Hơn nữa, đoàn thể xuất gia đệ tử của Đức Phật bao gồm Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Thức-xoa-ma-na, Sa-di và Sa-di-ni, thế thì việc Ni đoàn thông qua Tăng Ni nhị bộ những vấn đề liên quan đến giới luật cũng là việc đúng nguyên tắc, thể hiện sự đoàn kết, thanh tịnhhòa hợp theo tinh thầnĐức Phật chế định. Chính những lý do nêu trên nên kỉnh pháp này có mặt để giúp cho sự tu tập và hưng thịnh của Ni giới vậy.

7. Vị Ni không được phép chửi rủa hay sỉ vả vị Tăng trong bất cứ trường hợp nào.

8. Chư Ni không được phép quở trách chư Tăng, chư Tăng được quyền quở trách chư Ni.

Kỉnh pháp thứ bảy và thứ tám cũng nói lên lợi ích trong đời sống cộng trú thanh tịnhhòa hợp của nhị bộ Tăng Ni, cũng là điều vô cùng cần thiết nhằm đem lại uy tínđạo hạnh cho từng cá nhân trong Ni đoàn. Tuy nhiên để giữ sự bình đẳng giữa hai đoàn thể Tăng và Ni, Đức Phật đã chế ra pháp Yết-ma cảnh cáo Tỳ-kheo cho Ni bộ trong ba trường hợp sau đây: “1. Nếu một Tỳ-kheo phá giới (trọng giới) phạm trai. 2. Nếu có Tỳ-kheo đánh mắng Tỳ-kheo-ni hoặc thóa mạ, hoặc ném hoa, tát nước, hoặc nói những lời thô bỉ, trá ngụy, khuyên dụ… làm cho chư Ni phiền não. 3. Nếu có vị Hòa thượng hoặc Thượng tọa nuôi đệ tử mà không dạy dỗ để đệ tử đến chùa Ni quậy phá, chư Ni thưa trình ba lần mà chú Sa-di không chịu sửa đổi”. Trong ba trường hợp này, chư Ni có quyền yết-ma tác pháp đối với  2 vị Tỳ-kheo và vị Hòa thượng hoặc Thượng tọa bổn sư của chú Sa-di bằng cách “không cộng ngữ, không lễ bái, không cúng dường” (Cương yếu giới luật, HT.Thích Thiện Siêu biên soạn).

Tóm lại, Bát kỉnh pháp do Đức Phật chế ra nhằm bảo hộ Ni đoàn, giữ gìn sự đoàn kết, thanh tịnhhòa hợp cho đoàn thể đệ tử xuất gia của Ngài. Ni đoàn có sự bảo hộ này sẽ yên ổntinh tấn tu tập, sớm thành tựu đạo quả. Đây chính là mục đích của sự có mặt Bát kỉnh pháp.

Xuyên suốt những vấn đề trên, nhìn lại thì Tăng đoàn nói chung hay các Tỳ-kheo nói riêng chẳng có được mất, hơn thua, hay lợi ích gì trong việc này cả. Việc bất bình đẳng trong Bát kỉnh pháp có chăng chỉ là nghiệp tánh, tức là sự khác biệt về nghiệp thức của người nam và người nữ mà thôi. Cho nên, Phật tánh thì bình đẳng nhưng nghiệp tánh thì có khác biệt giữa Tăng và Ni hay nam và nữ. Do đó, chúng ta không thể vin vào đây để nói Đức Phật đã bất bình đẳng, bất công bằng khi chế ra Bát kỉnh pháp dành cho chư Ni.

Hiểu được như vậy để thấy rằng, nếu khôngBát kỉnh pháp thì giới thể của Tỳ-kheo-ni không thành tựu; mà khi giới thể không thành tựu thì làm sao đạt được sự định tĩnh và trí tuệ giải thoát. Hiểu được như vậy để chúng ta khởi lòng tri ân vô hạn Đức Thế Tôn, bởi nếu không có sự đồng thuận của Ngài thì hôm nay đã không có mặt của Ni đoàn, không có tiếng nói làm căn bản cho tất cả các nhà nhân quyền, bình đẳng quyền… trên khắp hành tinh này. Hiểu được điều đó, chúng ta, những người con trai, con gái của Đức Phật phải có bổn phận giữ gìn gia tài quý báu ấy, phát nguyện dõng mãnh, tinh tấn tu hành để báo đáp thâm ân Phật-Tổ. 

HT Thích Quang Đạo

(Giác Ngộ)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1183)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1651)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1585)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1498)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 1086)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1477)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1415)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1337)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1392)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1717)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 1982)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1438)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 1096)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1430)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 2036)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1479)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1565)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1394)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2918)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1379)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1413)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1734)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1685)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1637)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1480)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2646)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1609)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1616)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1409)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1428)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1618)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1572)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1449)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1438)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1524)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2207)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1556)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1516)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1633)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1848)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1541)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1421)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1677)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1426)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1720)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2396)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1478)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 1966)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1685)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1765)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1624)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1958)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1690)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1445)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1736)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1586)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1557)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1340)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1256)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1303)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant