Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bốn Đức Tính Để Chiến Thắng (song ngữ)

09 Tháng Năm 201618:21(Xem: 7590)
Bốn Đức Tính Để Chiến Thắng (song ngữ)
BỐN ĐỨC TÍNH ĐỂ CHIẾN THẮNG
Câu Chuyện Về Nữ Cư Sĩ Uttarā, Kệ 223 - Kho Báu Sự Thật,

Kinh Pháp Cú Minh Họa - Weragoda Sarada Maha Thero -
Chuyển Ngữ: Nguyễn Văn Tiến - Hình Vẽ: P. Wickramanayaka  -
Source-Nguồn: www.buddhanet.net
(Four Forms Of Victories - The Story Of Uttarā The Lay-Disciple, Verse 223 - Treasury Of Truth,
Illustrated Dhammapada - Weragoda Sarada Maha Thero - Illustrations by Mr. P. Wickramanayaka)

Bốn Đức Tính Để Chiến Thắng (song ngữ)

BÀI KỆ 223:

223. Akkodhena jine kodhaṃ
asādhuṃ sādhunā jine
jine kadariyaṃ dānena
saccena alikavādinaṃ. (17:3)

223. Lấy sự bình an, thắng sự giận dữ,
Lấy lòng tốt, thắng lòng hung ác,
Lấy lòng bố thí, thắng lòng keo kiệt,
Lấy sự thật, thắng sự giả dối.

Trong khi cư trú tại Tu Viện Trúc Lâm (Veluvana), Đức Phật đã nói bài kệ nầy, về một nữ cư sĩ, tên là Uttarā.

Uttarā là con gái của một người làm lao động trong trang trại có tên là Puñña và vợ của ông. Puñña làm việc cho một người đàn ông giàu có tên là Sumana, tại Vương Xá (Rājagaha). Một ngày kia, vợ chồng Puñña cúng dường thức ăn cho Tôn Giả Xá Lợi Phất (Sāriputta) ngay sau khi ngài vừa xuất-thiền ra khỏi tầng thiền sâu sắc Diệt Thọ Tưởng Định (nirodha samāpatti), và kết quả của việc làm thiện lành nầy là họ đột nhiên trở nên rất giàu có. Puñña trong khi đang cày trên một cánh đồng, ông đã may mắn kiếm được vàng, rồi được nhà vua chính thức phong ông là người-chủ ngân-hàng của hoàng-gia. Có một lần, gia đình của ông Puñña cúng dường thức ăn cho Đức Phậtchư tăng trong bẩy ngày, và vào ngày thứ bẩy, sau khi nghe xong bài giảng của Đức Phật, tất cả ba người trong gia đình của Puñña đã đạt Quả Nhập Lưu (Tu Đà Hoàn). Sau đó, Uttarā, con gái của Puñña, được gả cho con trai của người đàn ông giàu có Sumana. Gia đình Sumana không phải là Đạo Phật, và Uttarā không cảm thấy hạnh phúc trong gia đình chồng. Vì thế, cô nói với bố cô: "Bố ơi, tại sao bố đưa con đi nhốt vào cái nhà giam nầy? Ở đây, con chẳng trông thấy bất kỳ một nhà sư nào, cho nên con chẳng có cơ hội để cúng dường." Bố cô cảm thấy tiếc cho cô, nên ông gửi cho cô mười lăm ngàn tiền mặt. Sau khi nhận được sự cho phép của chồng, Uttarā dùng số tiền nầy mướn một cô gái điếm, để cô gái nầy phục vụ các nhu cầu của chồng cô. Người mà cô đã dàn xếp được là một cô gái điếm nổi tiếng, và rất xinh đẹp, tên cô là Sirimā, cô nầy sẽ thay cô làm vợ trong vòng mười lăm ngày.

Trong thời gian đó, Uttarā cúng dường thức ăn cho Đức Phậtchư tăng. Vào ngày thứ mười-lăm, trong khi cô đang bận rộn chuẩn bị thức ăn trong nhà bếp, chồng cô nhìn thấy cô qua cửa sổ phòng ngủ và mỉm cười, rồi anh lẩm bẩm một mình, "Vợ mình là một người thật ngu ngốc! Cô ta chẳng biết vui chơi hưởng thụ. Cô ta trông thật mệt mỏi với các buổi lễ cúng dường nầy!" Cô Sirimā nhìn thấy anh mỉm cười với vợ anh, và cô quên rằng cô chỉ là một người vợ-tạm-thời được trả tiền, cho nên cô cảm thấy rất ghen tị với Uttarā. Vì, cô không kiểm soát được bản thân, cô Sirimā đi vào nhà bếp, rồi cô cầm một cái môi-múc-canh chứa đầy bơ đun sôi, với ý định đổ bơ lên đầu của Uttarā. Uttarā trông thấy Sirimā bước tới, nhưng cô chẳng cảm thấy có ý xấu gì đối với Sirimā. Uttarā suy ngẫm rằng vì Sirimā đã chịu làm vợ-tạm-thời giúp cô, cho nên, cô đã có thể lắng nghe Phật Pháp, cúng dường thức ăn mười lăm ngày, và thực hiện các công tác từ thiện khác. Vì vậy Uttarā rất biết ơn Sirimā. Rồi, bất ngờ, Uttarā nhận ra rằng Sirimā đã đến rất gần bên cô, và cô Sirimā đang sửa soạn đổ bơ sôi nóng lên đầu cô; vì vậy, cô nghĩ một cách quả quyết như sau: "Nếu tôi có bất kỳ ý xấu nào đối với Sirimā thì cho bơ đang sôi nóng nầy đốt cháy tôi; còn nếu tôi không có bất kỳ ý xấu đối với Sirimā thì cho bơ đang sôi nóng nầy không đốt cháy tôi." Kết quả là bơ đang sôi nóng không làm hại gì cho cô Uttarā cả.

Sirimā sau đó, bày tỏ lòng mong muốn được gặp Đức Phật. Do đó, Sirimā đã được sắp xếp để cúng dường thức ăn đến Đức Phậtchư tăng, vào ngày hôm sau tại nhà của Uttarā. Sau bữa ăn, Đức Phật kể lại tất cả mọi chuyện đã xảy ra giữa Sirimā và Uttarā. Sirimā sau đó, thừa nhận cô đã làm điều sai trái đối với Uttarā, và cô khẩn nài Đức Phật giúp cô, xin Uttarā tha thứ cho cô, vì cô nghĩ, nếu không có ngài,  Uttarā sẽ không tha thứ cho cô. Đức Phật liền hỏi Uttarā trong tâm trícảm thấy như thế nào khi Sirimā đổ bơ đang sôi nóng lên đầu cô, và Uttarā đã trả lời, "Bạch Thế Tôn, bởi vì con còn nợ Sirimā rất nhiều, vì thế, con đã quyết tâm không để mất bình tĩnh, cho nên, con đã không có bất kỳ ý xấu nào đối với cô ấy. Hơn nữa, con còn gửi tình thương yêu của con đến cô ấy." Đức Phật liền nói: "Lành thay, thật là lành thay, Uttarā! Con không có bất kỳ ý xấu nào, nên con đã thắng người muốn làm hại con vì lòng thù hận. Con đối xử tốt đẹp, nên con đã thắng người ích kỷ, keo kiệt; con nói lên sự thật, nên con đã thắng người nói dối."

BÀI KỆ 223, GIẢI THÍCH TỪ TIẾNG PALI:

kodhaṃ akkodhena jine asādhuṃ sādhunā jine
kadariyaṃ dānena alikavādinaṃ saccena jine

kodhaṃ: người giận dữ; akkodhena: không giận dữ; jine: chinh phục; asādhuṃ: người không có đạo đức; sādhunā: (có) lòng tốt; jine: chinh phục; kadariyaṃ: sự keo kiệt; dānena: qua sự bố thí (chinh phục); alikavādinaṃ: người nói dối; saccena: bởi (bằng) sự thật; jine: chinh phục

Lấy sự bình an, thắng sự giận dữ. Lấy lòng tốt, thắng lòng hung ác. Lấy lòng bố thí, thắng lòng keo kiệt. Lấy sự thật, thắng sự giả dối.

Bài kệ 223 trong Kinh Pháp Cú nầy, đã được anh Tâm Minh Ngô Tằng Giao chuyển dịch thành thơ nhu sau:

(223) Lấy từ bi, lấy ôn hòa. Thắng cơn nóng giận bùng ra thét gầm. Lấy hiền lành, lấy thiện tâm. Thắng lòng hung ác bất nhân khó lường. Lấy tâm bố thí cúng dường. Thắng hàng keo kiệt, thắng phường tham lam. Lấy chân thật để đập tan. Những trò hư ngụy, dối gian ở đời.

BÌNH LUẬN

nirodha samāpatti: đạt được trạng thái yên tĩnh của Diệt Thọ Tưởng Định. Theo câu chuyện nầy, Puñña đã trở nên vô cùng giàu có, bởi vì ông đã cúng dường Tôn Giả Xá Lợi Phất (Sāriputta) ngay sau khi ngài xuất-thiền ra khỏi tầng thiền yên tĩnh sâu sắc Diệt Thọ Tưởng Định (nirodha samāpatti). Diệt cảm giác(thọ) và sự nhận biết(tưởng) (saññā vedayita nirodha) là tạm ngừng tất cả các hoạt động của tinh thần và của cái-biết.

Source-Nguồn: http://www.buddhanet.net/pdf_file/dhammapadatxt1.pdf

 

SHORT TITLE:

The Story Of Uttarā The Lay-Disciple, Verse 223, Treasury Of Truth

FULL TITLE:

Four Forms Of Victories - The Story Of Uttarā The Lay-Disciple, Verse 223 - Treasury Of Truth, Illustrated Dhammapada - Weragoda Sarada Maha Thero - Illustrations by Mr. P. Wickramanayaka - Source-Nguồn: www.buddhanet.net

VERSE 223:

223. Akkodhena jine kodhaṃ
asādhuṃ sādhunā jine
jine kadariyaṃ dānena
saccena alikavādinaṃ. (17:3)

223. Anger conquer by amity,
evil conquer with good,
by giving conquer the miserly,
with truth the speakers of falsity.

While residing at the Veluvana Monastery, the Buddha spoke this verse with reference to Uttarā, a female lay-disciple.

Uttarā was the daughter of a farm labourer named Puñña and his wife. Puñña worked for a rich man named Sumana, in Rājagaha. One day, Puñña and his wife offered alms-food to Venerable Sāriputta soon after his arising from sustained deep mental absorption (nirodha samāpatti), and as a result of that good deed they suddenly became very rich. Puñña came upon gold in the field he was ploughing, and the king officially declared him a royal banker. On one occasion, the family of Puñña offered alms-food to the Buddha and the monks for seven days, and on the seventh day, after hearing the Buddha’s discourse, all the three members of the family attained sotāpatti fruition. Later, Uttarā, the daughter of Puñña, married the son of the rich man Sumana. That family being non-Buddhist, Uttarā did not feel happy in her husband’s home. So, she told her father, “My father, why have you put me in this cage? Here, I do not see any monk and I have no chance to offer anything to any monk.” Her father felt sorry for her and sent her fifteen thousand in cash. With this money, after getting permission from her husband, Uttarā engaged a courtesan to look to the needs of her husband. So it was arranged that Sirimā, a well-known and very beautiful courtesan, was to take her place as a wife for fifteen days.

During that time, Uttarā offered alms-food to the Buddha and the monks. On the fifteenth day, as she was busy preparing food in the kitchen, her husband saw her from the bedroom window and smiled, and then muttered to himself, “How foolish she is! She does not know how to enjoy herself. She is tiring herself out with this alms-giving ceremony!” Sirimā saw him smile, and forgetting that she was only a paid substitute wife felt very jealous of Uttarā. Being unable to control herself, Sirimā went into the kitchen and got a ladleful of boiling butter with the intention of pouring it over the head of Uttarā. Uttarā saw her coming, but she bore no ill will towards Sirimā. She reflected that because Sirimā had stood in for her, she had been able to listen to the dhamma, make offerings of alms-food for fifteen days, and perform other acts of charity. Thus she was quite thankful to Sirimā. Suddenly, she realized that Sirimā had come very close to her and was going to pour boiling-hot butter over her; so she made this asseveration: “If I bear any ill will towards Sirimā may this boiling-hot butter burn me; if I have no ill will towards her may it not burn me.” The boiling-hot butter did not harm her a bit.

Sirimā then expressed her wish to see the Buddha. So it was arranged that Sirimā should offer alms-food to the Buddha and the monks on the following day at the house of Uttarā. After the meal, the Buddha was told everything that had happened between Sirimā and Uttarā. Sirimā then owned up that she had done wrong to Uttarā and entreated the Buddha that she should be forgiven, for otherwise Uttarā would not forgive her. The Buddha then asked Uttarā how she felt in her mind when Sirimā poured boiling butter on her head, and Uttarā answered, “Venerable, because I owed so much to Sirimā I had resolved not to lose my temper, not to bear any ill will towards her. I sent forth my love towards her.” The Buddha then said, “Well done, well done, Uttarā! By not bearing any ill will you have been able to conquer one who has done you wrong through hate. By not abusing, you should conquer one who is a miser; by speaking the truth you should conquer one who tells lies.”

EXPLANATORY TRANSLATION (VERSE 223)

kodhaṃ akkodhena jine asādhuṃ sādhunā jine
kadariyaṃ dānena alikavādinaṃ saccena jine

kodhaṃ: the angry person; akkodhena: with non-anger; jine: conquer; asādhuṃ: unvirtuous person; sādhunā: with goodness; jine: conquer; kadariyaṃ: the miserly; dānena: through charity (conquer); alikavādinaṃ: the liar; saccena: by truth; jine: conquer

Let anger be conquered by non-anger. Let bad ones be conquered by good. Let miserliness be overcome by charity. Let the liar be conquered by the truth.

COMMENTARY

nirodha samāpatti: attainment of the quiescence of cessation. Puñña became exceedingly rich according to this story because he offered alms to Venerable Sāriputta immediately after he arose from nirodha samāpatti (also described as deep mental rest). Cessation of feeling and perception (saññā vedayita nirodha) is the temporary suspension of all consciousness and mental activity.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8205)
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn từ Sơ thiền rồi Nhị Thiền, Tam thiền lần lượt thuận nghịch như vậy ra vào chín bậc thiền định xong, nói với đại chúng rằng...
(Xem: 8293)
Niết bàn thì ở khắp mọi nơi, ít nhất là đối với những người nói tiếng Anh. Từ ngữ nầy đã được dùng trong Anh Ngữ với ý nghĩa là "hạnh phúc" hoặc "bình yên".
(Xem: 9157)
Thần thông của Đức Phật là một trong những đề tài thu hút người viết và lôi cuốn người đọc. Từ trước đến nay, đã có nhiều bài viết đề cập đến vấn đề này.
(Xem: 8043)
Một số người tái-sinh lên làm người (sinh từ bào thai trong bụng mẹ), người độc-ác tái-sinh xuống địa ngục, người hiền-lành tái-sinh lên cõi trời, và người không-còn ô-nhiễm, sống hoàn-toàn an-lạc nơi cõi Niết Bàn.
(Xem: 16254)
Khoa học thần kinh ngày hôm nay đã chứng minh một cách khách quan và cụ thể rằng chánh niệm (samma-sati) là con đường trực tiếp nhất để gạt bỏ vọng tưởng về cái "ta"
(Xem: 15777)
Trong các ngành khoa học, rất có thể khoa học thần kinh (neurosciences) sẽ là ngành phát triển mạnh và gây nhiều ảnh hưởng nhất trong những thập niên tới.
(Xem: 7992)
Sự kiện Đức Phật nhập Niết-bàn thường được các giới Phật giáo tổ chức thành một lễ hội thiêng liêng.
(Xem: 8001)
Từ trước đến nay không có một tôn giáo, triết họctâm lý học nào phân tích tâm đầy đủ rõ ràng như Phật Giáo.
(Xem: 8721)
Mục đích của Đạo Phậtdiệt khổ và đem vui cho mọi loài, nhưng phải là người có trí mới biết được con đường đưa đến an lạchạnh phúc.
(Xem: 7888)
Kinh Hoa sen pháp diệu là dịch nghĩa từ tiếng Phạn Saddharmapuṇḍarīka-sūtra, và được dịch ra tiếng Trung Hoa bởi nhiều dịch giả.
(Xem: 7485)
Chẳng đồng nhất, chẳng dị biệt, chẳng đoạn diệt, chẳng thường hằng: đây là các giáo pháp bất tử của chư Phật, chư thượng thủ của thế giới.
(Xem: 9306)
Theo Phật Giáo, tâm tư duy (Tâm phan, như vệ tinh quả đất, định tinh mặt trời, và vô lượng thiên hà) có thể sinh ra trong không gian thời gian...
(Xem: 8561)
Trong cuốn giáo thuyết về linh hồn của Phật Giáo, Soul theory of the Buddhist, Giáo Sư Stcherbatsky, ghi nhận rằng...
(Xem: 8607)
Bất kì một sự vật gì tùy thuộc vào một nguyên nhân thì duyên hội thành một hiệu quả.
(Xem: 11881)
Đức Phật đã giải thích nguồn gốc của thế giới, vũ trụ, vạn vật, là do nghiệp quả (cause & effect) hấp dẫn cùng với sức thu hút bởi 12 nhân duyên
(Xem: 7500)
Ngũ uẩn hay là Ngũ ấm chỉ là năm (pañca) nhóm (skandha) tượng trưng cho năm yếu tố tạo thành con người, toàn bộ thân tâm...
(Xem: 8278)
Tạng Quang Minhcon đường đi của ánh sáng, cùng với năng lượng (chân hỏa tam muội, energy) và sắc tướng (mass) là phương tiện thần thông để du hành trong vũ trụ.
(Xem: 11723)
Nguyên văn đoạn kinh trong phẩm Phật-đà, Tương ưng bộ, như sau: “Này các Tỳ-kheo, thế nào là lý duyên khởi?
(Xem: 7400)
Phật Pháp được chia ra làm bốn thể loại là Giáo, Lý, Hành và Quả.
(Xem: 8995)
Tâm người bị ba thứ độc tố trói buộc, chính vì vậy chúng ta không sao vượt thoát được cảnh trầm luân khốn khổ. Chúng ta bị mắc kẹt trong phiền não của ba độc
(Xem: 8413)
Trong ý niệm này là sự bất biến thiên được hiểu như là một sự tướng trạng hoá của thật tướng của các sự vật.
(Xem: 10027)
Mọi tôn giáo đều tin rằng có sự sống sau khi chết, tức có kiếp sau của một ‘linh hồn’ thật sự. Học thuyết Phật giáo nên được phân biệt trong...
(Xem: 9672)
"Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm" là một câu kinh rất ngắn trong cả quyển kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật rất nổi tiếng được giới học Phật trích dẫn nhiều nhứt.
(Xem: 9608)
Mọi tồn tại đều vốn có Tự tính (như là bản chất) của nó. Vì rằng cái thành lập ra nó là Nhân tạo tác (Nhân) và Điều kiện tạo tác (Duyên) cũng tồn tại,
(Xem: 10551)
Giai đoạn đầu của Phật giáo Đại thừa được thể chứng qua sự hình thành và phát triển một văn hệ đồ sộ là Bát-nhã ba-la-mật-đa (prajñāpāramitā).
(Xem: 10145)
Căn bản trung quán luận tụng (Mūlamadhyamaka-kārikā) là một bộ luận chính trong ngôi nhà đồ sộ tráng lệ Trung Quán.
(Xem: 8229)
Cộng đồng nhân loại đã đến một điểm nghiêm trọng trong lịch sử của nó. Thế giới ngày nay khiến chúng ta phải chấp nhận nhân loại là một.
(Xem: 20256)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 8082)
Trong thế giới này cá nhân không hiện hữu, ngã cũng không hiện hữu, bởi vì chúng là các sự vật duyên khởi.
(Xem: 8566)
Đối tượng chấp thủ của tâm chấm dứt (tâm hành xứ diệt), Con đường ngôn ngữ không có lối vào (ngôn ngữ đạo đoạn).
(Xem: 9422)
Đấng Toàn Giác biết đã đến lúc sắp kết thúc kiếp sống này của Ngài. Nhưng trước khi nhập diệt, Đức Phật muốn
(Xem: 9324)
Ngã được nói đến, Để phân biệt với vô ngã. Chư Phật dạy thật tướng các pháp, Không có ngã, không có vô ngã.
(Xem: 7738)
Để giúp độc giả, tôi sẽ trình bày một bản tổng hợp giáo lý của các thuyết phục chính yếu về tôn giáotriết học của ngài Long Thọ.
(Xem: 8360)
Đây là bốn Chân lý cao quý. Này chư tăng! Những gì là bốn?
(Xem: 8204)
Do vô minh che lấp, chúng sinh tạo ba hành, nên theo ba hành nghiệp (thân, ngữ, tâm) vào luân hồi sáu cõi.
(Xem: 9027)
Hiện nay, giới nghiên cứu Phật học đang lưu tâm đến vấn đề: “Bát kỉnh pháp do Đức Phật chế ra hay do người sau thêm vào trong Tam tạng giáo điển?”.
(Xem: 8775)
Chúng ta phải hỏi điểm xuất phát là gì, chủ đề là gì, và quan tâm tối hậu của bộ luận tuyệt vời này là gì.
(Xem: 8626)
Chúng ta đang tiến dần đến đỉnh cao vĩ đại của Giáo Pháp, và mặc dù có những nguy hiểm đáng sợ đang đe doạ thế giới chúng ta.
(Xem: 10183)
Hai từ Bụt và Phật đã để lại dấu ấn sâu đậm trong ngôn ngữ lịch sử Việt Nam, vết tích còn thấy trong ca dao tục ngữ của văn hoá dân gian như...
(Xem: 8131)
Năm giớimười điều thiện được xem là cơ sở thiết lập đạo đức Phật giáo thì giới thứ hai “Không trộm cắp” là nhằm đảm bảo tính công bình và hướng tâm con người đi đến sự vô tham, vô sân, vô si.
(Xem: 8850)
Một khi tâm giác ngộ đã phát sinh, hạt giống của giáo pháp sẽ tiếp tục lớn mạnh cho dù...
(Xem: 9008)
Năm pháp, cùng tự tính, Tám thức, hai vô ngã. Hết thảy nó đều thâu nhiếp Đại thừa.
(Xem: 8453)
Nếu chúng ta có một sự sân hận lớn dễ bùng nổ và chưa rèn luyện chính mình một cách thích đáng, thế nên khi chúng ta cố gắng để...
(Xem: 7609)
Nguyên lý ở đây, là nguyên lý vô ngã, của Pháp duyên khởi, nguyên lý này ở chỗ khác, Pháp Hoa còn gọi là “vốn thường hằng tịch diệt”:
(Xem: 7519)
Chư Phật thấy các hữu tìnhbản tính tự nhiênniết bàn / bản tính niết bàn (prakrtiparinirvana; natural nirvana), vượt ngoài sầu muộn...
(Xem: 9522)
Phật giáo không bao giờ có khái niệm cõi âm hay là âm phủ. Có thể đây là những từ ngữ của tín ngưỡng dân gian
(Xem: 9885)
Tự lựctha lực là những khái niệm được đề cập rất nhiều trong Phật giáo. Những khái niệm này bao trùm...
(Xem: 8550)
Ba truyền thống Phật giáo Ấn Độ, Trung Hoa và Tây Tạng đều cho rằng Phật tánh hay Như Lai tạng là lần thuyết pháp sau cùng và cũng là cực điểm của kinh điển.
(Xem: 12295)
Tại sao gọi Tánh không duyên khởi? Nhà Phật nói tất cả pháp Tánh không, do duyên hợp thành các pháp.
(Xem: 9628)
Trước khi trở lại Tâm Kinh, hãy thử tìm hiểu thuyết vô ngã qua kiến giải của nhiều bộ phái khác nhau trong Phật giáo để...
(Xem: 7563)
Giáo huấn được mở rộng vô hạn và được tuyên thuyết đến vô lượng chúng sanh khắp các loài đủ các tính khí.
(Xem: 8866)
Sự “chuyển phước” như chỉ là một phép ẩn dụ phần nào đẹp để chỉ những gì xảy ra đối với những ảnh hưởng của hành động có kết quả tốt (puṇya), điều được gọi là “thiện nghiệp”
(Xem: 16890)
Nhập Trung Quán Luận (PDF) - Tổ Sư Nguyệt Xứng - Chuyển dịch: Thích Hạnh Tấn, TN Nhật Hạnh
(Xem: 9028)
Theo quan điểm của Phật Giáo thì mục đích của lễ bái là nhằm giúp chúng ta đến gần hơn với Đức Phật.
(Xem: 13259)
Phật giáophương cách dùng lòng Từ Bi để xóa đi, diệt đi lòng sân hận oán hờn, đó là phương thuốc diệt khổ cho vui,
(Xem: 19795)
Phật GiáoVũ Trụ Quan (PDF) - Tác giả: Lê Huy Trứ
(Xem: 8662)
Dưới đây là một bài viết của học giả Phật giáo Philippe Cornu, và cũng là bài mở đầu trong tập san "Hướng nhìn Phật giáo" (Regard Bouddhiste)...
(Xem: 9231)
Đối với Phật giáo, dana - việc bố thí - giữ một vai trò thật quan trọng, bởi vì nếu ngay từ lúc mới khởi sự tu tập mà không thực thi việc bố thí thì sẽ ...
(Xem: 8308)
“Tất cả ba cõi chỉ là Một Tâm”. Phẩm Dạ-ma cung kệ tán nói, “Như tâm, Phật cũng vậy. Như Phật, chúng sanh đồng. Tâm, Phật, và chúng sanh. Cả ba không sai khác”.
(Xem: 10204)
“Theravāda Tantra”, hay “esoteric practices of Theravāda ” là những thuật ngữ mà các học giả phương tây sử dụng để gọi các pháp hành mang tính bí truyền của...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant