Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Năng Lực Phát Nguyện

26 Tháng Mười 201606:33(Xem: 8903)
Năng Lực Phát Nguyện
NĂNG LỰC PHÁT NGUYỆN

Chân Hiền Tâm

Năng lực phát nguyện

Tôn giả Angulimala[1] trước khi gặp Phật, là một kẻ sát nhân. Sau khi xuất gia, tôn giả tinh tấn tu tập, lấy phép quán từ bi làm tâm điểm trong việc tu tập của mình. Tôn giả vẫn thường làm kệ:

Ai trước làm nghiệp ác
Nay lấy thiện chận lại
Chói sáng thế gian này
Như trăng thoát mây che

Một lần vào thành khất thực, Tôn giả gặp một phụ nữ đang chuyển dạ. Cô ta mong Tôn giả chỉ cho một pháp bình an.

Tôn giả không biết làm sao nên phải trở về bạch với Phật. Sau khi được Phật chỉ dạy, Tôn giả quay lại chỗ sản phụ và nói: “Tôi từ khi được Thánh sinh đến nay, chưa bao giờ cố ý giết hại mạng sống của chúng sinh. Mong rằng với sự thật ấy, bà được an toàn và sinh nở được an toàn”. Sau lời chú nguyện, người phụ nữ vượt cạn an toàn.

Câu chuyện cho ta thấy tác dụng rất mạnh của lời nguyện. Nó giống như một lời thần chú giúp việc lợi tha được hoàn mãn mà không cần dùng đến pháp nào khác.

Vì sao lời nguyện của tôn giả lại mạnh như thế? Vì nó không phải là một lời mong muốn suông. “Từ khi thánh sinh đến nay”, là từ khi Tôn giả từ bỏ việc giết người, xuất gia tu hành, giữ giớitu tập thiền định trí tuệ. “Chưa bao giờ cố ý giết hại mạng sống của chúng sinh” là từ tâm không giết hại. “Không cố ý” là không có chủ tâm muốn giết hại chúng sinh. Giết hại có hai. Hoặc là do cố ý. Hoặc là do vô tình. Đây Tôn giả khẳng định không cố ý. Nó thể hiện loại từ tâm mà ngài đang tu.

Giết hại đưa đến cái quả bất an, tai họa, yểu mệnh. Không giết hại sẽ tránh được các cái quả như thế. Người không giết hại sẽ nhận được cái quả an ổn, không có tai họatrường thọ.  

Tôn giả dùng công đức có được từ việc từ bỏ sát sinh, không có tâm cố ý sát sinh đó, hồi hướng cho thai phụ, cũng có nghĩa là hồi hướng sự an bình, không tai họa cho sản phụ.

mọi việc được như ý.

Bài kinh trên cho ta thấy mấy điều sau:

1/ Có thể dùng công đức từ việc tu hành của mình hồi hướng cho tha nhân, giúp tha nhân bình an. Người hữu duyên sẽ nhận được sự trợ duyên này. Hữu duyên, là người có duyên với mình. Hữu duyên có hai loại. Một là thuận duyên. Hai là nghịch duyên. Thuận duyên, là người từng gieo duyên lành với mình. Nghịch duyên là người cũng từng gieo duyên với mình, nhưng không phải duyên lành mà là ác duyên. Vô duyên thì việc hồi hướng không có tác dụng. Còn đã có duyên, dù thuận hay nghịch, việc hồi hướng đều có tác dụng ít nhiều.    

Nếu thuận duyên thì mọi việc trở nên dễ dàng, kết quả dễ thấy.

Nếu là nghịch duyên, chúng ta phải biến cái nghịch duyên đó thành pháp trợ cho việc tu hành của mình. Tức chúng ta phải biến những nghịch duyêntha nhân mang lại cho mình thành pháp giúp mình tiến tu. Người ta gây oán trái cho mình, mình không sân hận mà chỉ thấy nhờ họ lực nhẫn của mình mạnh hơn, mình bất động được với các oán trái đó, nó sẽ tạo ra một loại công đức rất lớn, mà nghịch duyên chính là một trong các duyên trợ lực tạo ra công đức này. Đó là chúng ta biến nghịch duyên thành thuận duyên, rồi dùng đó hồi hướng cho người.

2/ Bất kể trước đó chúng ta thế nào, nhưng khi bắt đầu tu thì công đức liền xuất hiện. Chúng ta có thể dùng công đức đó để hồi hướng cho tha nhân. Tha nhân có thể là người không thân và người thân.

3/ Tùy nhân tùy duyênhồi hướng: Muốn hồi hướng cho người được bình an, tai qua nạn khỏi thì chúng ta dùng loại công đức tương ưng với đó mà hồi hướng.

- Đối với người phạm giới thì dùng công đức không phạm giới hồi hướng. Như không uống rượu hay trinh bạch thì dùng phước đức đó mà hồi hướng cho người không uống rượu và không trinh bạch.

- Đối với người bệnh hoạn, nạn tai thì dùng công đức có được từ việc không sát sinh hay phóng sinhhồi hướng.

Cứ tùy nhân tùy duyên tương ưnghồi hướng

4/ Kết quả tùy thuộc vào công đức tu hành của người hồi hướng và phước lành của người được hồi hướng

Nếu người hồi hướng công đức lớn. Tức gồm đủ ba loại:

  1. Công đức phát tâm bồ-đề : Trên cầu Phật đạo, dưới hóa độ chúng sinh.
  2. Công đức tu hành của bản thân : Hàng phục tham sân si.
  3. Công đức có được từ việc lợi tha : Giúp người.

Gồm đủ ba loại đó thì nguyện lực hồi hướng mạnh, dễ có kết quả mau chóng.

Dù đủ ba phần đó rồi, nhưng tùy năng lực tu hành, việc lợi ích tha nhân nhiều hay ít mà kết quả mau chậm cũng có sai khác.

Nếu người được hồi hướng có phước đức của bản thân thì kết quả nhận được sẽ mau chóng hơn là người không có phước đức.

Đó là lý do vì sao cùng một việc phát nguyện mà ta thấy có kết quả sai khác trong các trường hợp.

Lợi ích cho người bằng cách hồi hướng công đức từ bản thân, đa phần đều mang lại kết quả hữu dụng tốt đẹp, hơn là chạy theo những hình thức lợi ích bên ngoài mà năng lực tu hành không có. Thiếu trí tuệ thì có khi thứ mình nghĩ lợi ích cho người chính là hại người…


[1] Kinh trung Bộ tập 2. Kinh Angulimala
Ý kiến bạn đọc
16 Tháng Mười Một 201610:54
Khách
Quý lắm, quý lắm, cảm mộ Chư Vị Sư Phụ đã tận tâm, tận lực dùng đủ mọi phương cách giúp chúng sanh thoát mê, khai ngộ.

Thay mặt 1 người trong những chúng sanh mê muội cảm tạ ân đức quý báo này.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1330)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1356)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 1068)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1235)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1711)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1645)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1539)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 1118)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1502)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1463)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1379)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1432)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1761)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 2041)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1482)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 1134)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1479)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 2138)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1521)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1599)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1446)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 3003)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1437)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1452)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1779)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1749)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1683)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1541)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2710)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1662)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1659)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1463)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1490)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1662)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1600)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1482)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1479)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1554)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2253)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1589)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1563)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1693)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1902)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1575)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1447)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1704)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1463)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1776)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2444)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1517)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 2017)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1739)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1806)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1665)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1991)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1716)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1490)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1755)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1618)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1592)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant