Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Hiểu Rõ Hơn Về Nghiệp

21 Tháng Sáu 201805:10(Xem: 6446)
Hiểu Rõ Hơn Về Nghiệp

Hiểu Rõ Hơn Về Nghiệp 

Pháp Hiền

Hiểu Rõ Hơn Về Nghiệp



Khái niệm ‘nghiệp’, thật ra, đã có mặt trong văn học Bà-la-môn giáo từ rất lâu trước khi Đức Phật xuất hiện ở đời. Nhưng, trong Phật giáo, từ vựng này cũng chiếm một địa vị quan trọng đặc biệt. Nên người học Phật ngày nay rất cần chiêm nghiệm lại nội dung của khái niệm này.

1 Nghiệp’ và ‘hành’

Không thể cứ lẫn lộn mãi ‘nghiệp’ (karma/kamma) với ‘hành’ (samskara/samkhara). Một số sách tiếng Anh, tiếng Pháp cũng thường lẫn lộn như vậy, nên đã dịch chữ Karma/Kamma bằng chữ action (hành động! Và dịch chữ samskara/samkhara là mental formation (sự tạo thành trong ý). Được biết có nhiều loại ‘hành’; như thường thấy, có: ‘ý hành’ (sự tác động của ý), ‘khẩu hành’ (sựtác động bằng lời nói) và ‘thân hành’ (sự tác động qua việc làm của thân); trong đó, thông thường, ‘ý hành’ là khởi điểm, từ đó sanh ra những hệ quả là ‘khẩu hành’ và ‘thân hành’; rồi đến lượt ‘khẩu hành’ và ‘thân hành’ lại sanh ra những hệ quả của chúng. Như vậy, một cách tổng quát, ‘hành’ nên được hiểu là ‘sự tác động’, và ‘sự tác động của ý’ (‘ý hành’) là quan trọng nhất. Còn ‘nghiệp’ là gì ?

Hãy hình dung việc bắn ra một mũi tên. Việc ‘bắn ra’ là ‘hành’. Và, ngay sau khi được bắn ra, mũi tên bay theo ‘cái trớn’ (cũng gọi là ‘cái đà’) của nó. ‘Cái trớn’ hay ‘cái đà’ ấy, khá trừu tượngbao gồm ít nhất hai thành tố: hướng bay và vận tốc hay gia tốc bay. Khi biết được ‘cái trớn’ của mũi tên ở một thời điểm T nào đó, người ta có thể tính để biết được mũi tên ấy sẽ rơi ở đâu và vào lúc nào. ‘Cái trớn’ hay ‘cái đà’ đó, trong vật lý học gọi là momentum, tương đương với ‘nghiệp’ trong Phật giáo; và, như vậy, ‘nghiệp nên được hiểu là spiritual momentum, hay ‘cái trớn tâm linh’. Mọi tác động hay khởi động vật lý nào cũng tạo ra ‘cái trớn’.

Cũng vậy, mọi tác động của thân, khẩu và ý đều tạo ra ‘nghiệp’. Ta có: ‘thân nghiệp’, ‘khẩu nghiệp’ và ‘ý nghiệp’, trong đó ‘ý nghiệp’ là quan trọng nhất. Vô ý làm chết người, cũng tạo ‘nghiệp’, nhưng nghiệp này nhẹ hay thoáng qua, tựa như vẽ hình trên bờ biển sẽ nhanh chóng bị sóng biển xóa mất; trong khi cầm dao đâm vào một bao cát mà nghĩ rằng đang đâm cho chết một kẻ thù nào đó, thì nghiệp này sẽ nặng hay dài lâu, như thể khắc hình sâu trên đá.

2- ‘Nghiệp’ và ‘nhân quả’

Cũng không thể cứ lẫn lộn mãi ‘nghiệp’ với ‘nhân quả’. Thử nghiệm lại câu nói “Hãy cẩn trọng ý nghĩ của bạn, vì ý nghĩ dẫn đến lời nói; hãy cẩn trọng lời nói của bạn, vì lời nói dẫn đến việc làm; hãy cẩn trọng việc làm của bạn, vì việc làm tạo thành thói quen; hãy cẩn trọng thói quen của bạn, vì thói quen dẫn tới ‘quả báo’”. Đó là một chuỗi ‘nhân quả’ nối tiếp nhau, và tất nhiên nó không dừng lại ở chỗ ‘quả báo’ vì: trên tiến trình vận động, ‘quả’ lại trở thành ‘nhân’, cộng hưởng với nhiều ‘duyên’ khác, dẫn tới những ‘quả’ khác nữa, đồng thời tạo nên rất nhiều tác động phụ. Ở đây, đề nghị lưu ý hai chữ “dẫn tới”, và hãy đặt câu hỏi: Bởi năng lực nào mà có cái sự “dẫn tới” đó ? – Thưa: Bởi ‘nghiệp LỰC’ (lực của ‘cái trớn’). Như vậy: Chính ‘nghiệp LỰC’ tạo nên LUẬT nhân quả. Và khi ‘Luật nhân quả’ được kiểm nhận như là một ‘Luật Thép’, thì ‘nghiệp lực’ cũng được kiểm nhận là không thể vô hiệu hóa được. Tất nhiên, trong một giới hạn nào đó, ta có thể giảm bớtsự cộng hưởng của ‘nghiệp’ với những ‘duyên’ khác, đồng thời giảm bớt những tác động phụ do nghiệp gây ra, trên tiến trình vận động hay chuyển biến của nó.

Mấy điều ghi trên, phải chăng là trái với điều mà hầu hết các sách đều cho rằng: sau khi đã tạo ra ‘nhân’ bất thiệnnếu không tạo ‘duyên’ cho nhân này nẩy nở, thì sẽ khỏi phải gặp lấy ‘quả’ bất thiện? Ở đây, cần phân biệt ‘lý tắc nhân quả’ (causality) và ‘tổ hợp nhân duyên’, cũng gọi là ‘nhân duyên sanh’ (causation). Và cần hiểu rằng ‘nhân’, cũng như ‘quả’, trong quan hệ ‘nhân nào quả nấy’ của ‘lý tắc nhân quả’, chính nó cũng là một ‘tổ hợp nhân duyên’. Khi ‘tổ hợp nhân duyên’ gọi là ‘nhân’ thay đổi tính cách, thì ‘tổ hợp nhân duyên’ gọi là ‘quả’ của nó cũng tương ưng theo. Sự thay đổi này rất có thể thực hiện được, nhưng chỉ được thực hiện trong ‘tổ hợp nhân duyên’ gọi là ‘nhân’. Tuy có sự thay đổi như vậy nhưng nguyên tắc “nhân nào quả nấy”, của ‘lý tắc nhân quả’, vẫn không hề bị sai phạm; và ‘nghiệp lực’ vẫn thể hiện công năng của nó.

3- “Chuyển nghiệp” và “dứt nghiệp

Được biết: 1. Sự tác động hay khởi động, như việc bắn ra mũi tên nêu trên, cũng gọi là ‘nhân’ trong quan hệ ‘nhân quả’, một khi đã được thực hiện thì không thể trở lại được; mà ‘quả’ thì chưa có, chỉ có cái ‘nghiệp’ đang vận hành. 2. Mỗi chúng sanh, hay mỗi người chúng ta, đều đã trải qua vô sốkiếp trong quá khứ, và bởi ‘nghiệp’ trước mà sanh ra ở đời này; cũng chính cái ‘nghiệp’ ấy nó chi phối hay khống chế mọi tư duynhận biếtlời nói, ứng xử… của ta; tức là các ‘nghiệp’ mới do ý nghĩlời nói và việc làm của ta tạo ra trong kiếp sống này, trên nguyên tắc, cũng đều bị khống chế, lập trình, định hướng bởi ‘nghiệp’. Trong khi, ở trên lại nói: ‘Luật nhân quả’ là một ‘Luật Thép’, và ‘nghiệp lực’ là không thể vô hiệu hóa được. Vậy, vấn đề ‘chuyển nghiệp’ hay ‘dứt nghiệp’ phải được hiểu như thế nào?

Cần lưu ý rằng: 1. Mọi tác động hay khởi động đều tạo ra ‘nghiệp’ (trớn hay đà); như vậy, ‘nghiệp’ là pháp ‘được tạo thành’ (do duyên sanh, hay hữu vi), tức là không có tự thể riêng và chịu luật ‘vô thường’, chứ không thể tồn tại mãi mãi. 2. Trong tiến trình vận hành của ‘nghiệp’, như chuỗi nhân quả nối tiếp nhau nêu trong đoạn I: ‘nhân’ đầu (N1) dẫn tới ‘quả’ đầu (Q1); ‘quả’ N1 này lại thành ‘nhân’ (N2), nó chiêu cảm và cộng hưởng với các ‘duyên’ mới (khác), dẫn tới ‘quả’ (Q2); ‘quả’ Q2 này lại thành ‘nhân’ (N3), nó chiêu cảm và cộng hưởng với các ‘duyên’ mới (khác), dẫn tới ‘quả’ (Q3); cứ thế tiếp tục. Thế nên ‘nghiệp lực’ có thể được tăng thêm hay giảm bớtđồng thời nó cũng tạo ra nhiều tác động bậc 2, 3, 4..., tạo thành một chuỗi, tựa như chuỗi ‘12 nhân duyên’ mà Đức Phật đã dạy; trong đó, mỗi ‘mắt xích’ là một ‘tổ hợp nhân duyên’, cũng là chỗ có thể cải tạo haychuyển hóa được. Tức là có thể thực hiện được việc ‘chuyển nghiệp’ hay ‘dứt nghiệp’.

Ở trình độ con người, sự việc diễn ra không đơn giản như chuyện mũi tên nêu trên, vì trong mỗicon người vốn có sẵn khả năng tự dự phóng cho mình cái ‘nên là’. Và sự hiện hữu thực sự của mỗi người thể hiện qua ý chí huy động năng lực này để ‘chuyển nghiệp’ hay ‘dứt nghiệp’ của mình; ngược lại, nếu buông thả theo sự đưa đẩy của ‘nghiệp’ dẫn đến cái ‘sẽ là’, như một loại ‘tiền định’ của thuyết ‘định mệnh’, thì người ấy không thực sự hiện hữu.

Bây giờ chúng ta hãy hình dung, thay thế mũi tên bằng một phi thuyền, có năng lực nội tại và người lái, đang bay. Và:

- ‘Dứt nghiệp’, tương tự việc người lái tắt hết các máy, chỉ nương theo cái trớn còn lại đưa phi thuyền đáp xuống nơi an toàn nhất. Truyền thống ‘tiểu thừa’ (khác với Theravada ngày nay, đã có nhiều thay đổi) đặc biệt chú trọng hướng tu này. Chủ yếu, họ giữ giới nghiêm tịnhđóng cửa các ‘căn’ (mắt, tai, mũi, lưỡi và thân), tránh tối đa việc tiếp xúc với cõi đời mà theo họ là ô uế, thanh tịnh tâm ý, dứt sạch mọi chấp bám mong cầu, đạt quả vị A-la-hán, đợi hết ‘nghiệp’ cũ nhập ‘Vô dư Niết-bàn’.

 - ‘Chuyển nghiệp’, tương tự việc người lái vừa lợi dụng cái trớn đang có vừa vận dụng năng lựcnội tại để tăng tốc và lái phi thuyền bay sang hướng khác. Truyền thống ‘đại thừa’ đặc biệt chú trọng hướng tu này. Chủ yếu họ vượt ‘ngã chấp’ và ‘pháp chấp’, từ bỏ mọi mục đích vì bản thân và phát đại nguyện “thành Phật cứu độ chúng sanh”, chẳng những không lánh đời mà còn phải gắn bó với mọi chúng sanh bằng cách thực hành nhiều phương tiện thiện xảo, v.v. Pháp môn Tịnh độcũng chủ yếu dựa trên sự phát nguyện có tính chuyển nghiệp này (nguyện vãng sanh cũng nằm trong đại nguyện nên trên).

Thiền tông không đặt vấn đề ‘chuyển nghiệp’ hay ‘dứt nghiệp’. Họ chỉ chú trọng việc nắm bắt,thâm nhập và an lập trong thực tính vốn thanh tịnh của mọi pháp (hiện tượng), trong đó có cả ‘nghiệp’.

4- “Cộng nghiệp” và “biệt nghiệp” ‘

Cộng nghiệp’ là nghiệp của cái ‘toàn thể’, còn ‘biệt nghiệp’ là nghiệp của mỗi ‘thành phần’ (hay ‘thành viên’) cấu thành cái ‘toàn thể’ đó. Ví dụ như, gia đình là một ‘toàn thể’ được cấu thành bởi các thành viên của nó, gồm: cha mẹ, các người con…, nhưng gia đình là một ‘đương thể’ (entity)hoàn toàn khác với mỗi thành viên của nó, cũng hoàn toàn khác với cái ‘tổng thể’ của các thành viên đó. Bởi vì gia đình không phải chỉ được cấu thành bởi những thành phần thuộc dạng vật thể (như cha, mẹ, các con…) mà còn bởi các thành phần phi vật thể (như gia phong, truyền thống…). Do chỗ khác biệt này mà, khi những người cha mẹ đã qua đời, gia đình vẫn tiếp tục tồn tại, với những ‘thành phần cấu thành’ mới (khác) của nó và trong những điều kiện khác của hoàn cảnh – cái ‘toàn thể’ gia đình, dù phụ thuộc vào các thành phần cấu thành nó (nó không có ‘tự thể’ riêng và chịu luật vô thường), nhưng nó hiện hữu và tồn tại dài lâu, đồng thời vẫn luôn luôn chuyển biếnhay vận động, theo cái ‘nghiệp’ của nó, chứ không phải là bất biến. Ở phạm vi lớn hơn, cái làng chẳng hạn, làng là ‘toàn thể’, được cấu thành bởi nhiều gia đình; ở mức độ này, ‘nghiệp’ của gia đình lại là ‘biệt nghiệp’, so với ‘nghiệp’ của làng là ‘cộng nghiệp’. Cũng vậy, nhìn mở rộng ra thêm nữa, ở phạm vi quốc gia – dân tộc, đến toàn thế giới – nhân loạivân vân.

Ở mức độ mỗi thành viên gia đình, mỗi người (cha, mẹ, con…), gọi một cách tổng quát là mỗi ‘nhân thể’ (person/pudgala), đều là một ‘toàn thể’, được cấu thành bởi năm ‘uẩn’ (sắc – thành phần vật thể -, thọ, tưởng, hành và thức – các thành phần phi vật thể) – nó không có ‘tự thể’ riêng (phụ thuộc vào các thành phần cấu thành nó) và chịu luật vô thường, nhưng nó hiện hữu và hoàn toànkhác biệt với các ‘thành phần cấu thành’ đó. Trong trường hợp này, cái nghiệp của mỗi ‘nhân thể’ là ‘cộng nghiệp’, và cái nghiệp của mỗi ‘uẩn’ là ‘biệt nghiệp’. Do chỗ khác biệt này mà, khi một vài ‘uẩn’ (‘sắc uẩn’, ‘thọ uẩn’, ‘hành uẩn’, chẳng hạn) tan rã (chết), cái ‘nhân thể’ (toàn thể) vẫn tiếp tụctồn tại - mà nhiều người gọi đó là ‘linh hồn’, hay ‘vong linh v.v., và tiếp tục chuyển biến theo cái ‘nghiệp’ của nó, hay ‘đầu thai’ vào trong những điều kiện sống mới: hoặc ở dạng phi vật thể (ở ‘cõi vô sắc’), với nhiều tầng mức khác nhau: chỉ có ‘thức uẩn’, có ‘ thức uẩn’ và ‘hành uẩn’, có ‘thức uẩn’ ‘hành uẩn’ và ‘tưởng uẩn’, hay có cả bốn uẩn phi vật thể (thọ, tưởng, hành và thức); hoặc dưới dạng ‘sắc thể’ vi tế mà mặt thường không thấy được (ở ‘cõi sắc’); hoặc sanh trở lại ở ‘cõi dục’, làm người, A-tu-la, súc sanh…

5- ‘Cận tử nghiệp’ ‘

Cận tử nghiệp’ của một người (‘nhân thể’/pudgala) là cái ‘nghiệp’ hay ‘cái trớn tâm linh’ hiện diệntrong lúc thân mạng của ‘nhân thể’ đó đang trong tiến trình tan rã. Sau khi rời bỏ xác thân, ‘nhân thể’ đó vẫn tồn tại dưới dạng không có xác thể (thường được gọi là ‘linh hồn’ hay ‘vong linh’). Tức là cái ‘nghiệp’ cận tử ấy vẫn tồn tại và, bằng năng lực của nó, tiếp tục hành hoạt, dẫn đưa ‘nhân thể’ ấy đến nơi tương ứng (đã được ký giữ trước trong nghiệp).

Và, câu hỏi được đặt ra là: Có thể cải tạo ‘cận tử nghiệp’ không? Trừ một số trường hợp cực kỳ hiếm hoi, nói chung: không thể cải tạo được ‘cận tử nghiệp’. Bởi vì, sau khi thực sự rời bỏ thân mạng này và trước khi thọ nhận thân mạng tiếp theo, tức là đang trong ‘hiện thể trung gian’ (‘trung ấm’/antarâbhava), ‘nhân thể’ ấy không còn năng lực nào nữa ngoài ‘nghiệp lực’; mà ‘nghiệp lực’ thì không thể cải tạo ‘nghiệp lực’ được.

Thế nhưng, trước khi thực sự rời bỏ thân mạng, có thể thay thế ‘cận tử nghiệp’ này bằng một ‘cận tử nghiệp’ khác. Do chỗ mỗi người chúng ta đều đã trải qua vô lượng kiếp trong quá khứ, đã nhiều lần được sanh về các cõi cao lành, cũng như đã nhiều lần bị sanh vào các cỡi thấp dữ; tất cả các trải nghiệm đó đều đã được ký giữ trong ‘tàng thức’ dưới dạng ‘chủng tử’. Và, ngay trước khi thực sự rời bỏ thân mạng (cận tử), bằng một phương pháp đặc biệt (nhờ bạn đạo đọc kinh tiếp dẫn, nhờ một vị thầy chuyên tu pháp môn này…), một ‘chủng tử’ cao lành được nhắc nhớ, được đưa lên lại ở phần ý thức và được khởi động; như vậy, ‘cận tử nghiệp’ đã được thay thế. Và ‘cận tử nghiệp’ mới này tiếp tục hành hoạt sau

6- Nghiệp và ‘vô ngã’

Cái ‘nhân thể’ (person/pudgala) ấy được gọi một cách phổ thông là “cái tôi” hay “cái ta”. Có vẻ trái ngược với pháp lý ‘vô ngã’ (‘không có cái tôi’) của nhà Phật chăng? Chúng ta cần xem lại pháp lý ‘vô ngã’.

Một cách tổng quát, giáo thuyết bản thể học của Bàla-môn giáo cho rằng có một Brahmà (thường được dịch là ‘Đại hồn’ hay Đại ngã, cũng gọi là Đấng tối cao), là trung tâm của sự sống của cái ‘Toàn thể vũ trụ’; từ đó phóng ra vô số tia năng lượng mà mỗi tia hóa hiện thành Atma (hay Atta, thường được dịch là ‘linh hồn’, hay ‘linh thể’, hay ‘tiểu hồn/ngã’), là trung tâm của sự sống của mỗicá thể chúng sanh (con người). Atma vốn cùng một tính thể với Brahman, tức cũng là một ‘tự thể’ thường còn bất biến trong mỗi chúng sanh (con người). Nhưng vì trải qua bao kiếp trầm luân, sống trong sự ràng buộc của thể xác và của bản năng động vật, Atma/Atta nơi chúng sanh (con người) bị che lấp, bị bỏ quên, bị đánh mất... Từ luận điểm này, họ đưa ra phương hướng tu, với nhiềuphương cách khác nhau, nhằm làm sáng tỏ lại Atma/Atta vốn sẵn có trong chính mình, và đưa nótrở lại nhập làm một với Brahma vốn là ‘điểm phát sanh nguyên thủy’ của nó. Và giáo thuyết Anatma Anatta của Đức Phật là nhằm phủ bác giáo thuyết bản thể học nói trên ; mà có thể là Đức Phật xác quyết rằng: không hề có cái Atma (an-Atm/anAtta), tức không hề có cái gì là ‘tự thể’ thường còn bất biến, trong mỗi ‘nhân thể con người vốn chỉ được cấu thành bởi năm ‘uẩn’: sắc, thọ, tưởng, hành và thức, cả năm đều luôn luôn biến động theo luật ‘vô thường’; do đó, ‘nhân thể’ cũng luôn luôn biến động theo luật ‘vô thường’.

Giáo thuyết Anatma / Anatta của Đức Phật, như vậy, là hoàn toàn có thể hiểu được, hay kiểm nhận được, ngay cả trong phạm trù hiện tượng giới (tục đế). Nhưng khi chuyển sang Hán văn, Anatma được dịch là ‘vô ngã’, và được hiểu là “không có cái tôi/ta”, đến “không có cả cái nhân thể”. Cách dịch này rõ ràng đã lệch ý hàng vạn dặm, rồi cùng với cách hiểu nêu trên, nó đưa tới nhiều rối rắm trên bình diện triết học và luận lý học!!! Chẳng hạn như ta có thể nêu câu hỏi: Nếu không có ‘cái tôi/ta’ hay ‘cái nhân thể’, thì Thái tử Tất-đạt-đa là cái gì? Ai (hay cái gì) đã trải qua vô lượng kiếp vàcuối cùng thành Phật, hiệu là Thích Ca? Và còn hàng loạt câu hỏi khác có thể được nêu ra.

Có người cho rằng nên xem thực trạng ‘vô ngã’, gồm cả thực trạng ‘không có nhân thể’, là thuộcChân thật giới (Chân đế) và là một trong các thành quả tối hậu của quá trình tu chứng. Trong khi ‘nghiệp’ là một pháp hữu vi, được sanh ra, tất nhiên là thuộc hiện tượng giới (tục đế); nó hiện hữucùng với cái ‘nhân thể’, chứ không phải với cái Atma vốn không hề có; khi tu đạt đến thực trạng ‘vô ngã’, thì cả ‘nhân thể’ và ‘nghiệp’ đều là ‘vô’. Đây cũng là một cách lý giải, nhưng một cách đơn giản hơn, chỉ cần trở về với giáo thuyết Anatma/Anatta nguyên thủy thời ‘nghiệp’ và an-Atma (an-Atta) như vừa nêu trên, hoàn toàn không có gì mâu thuẫn nhau. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2017)
Vũ trụ này thực sự là gì? Tại sao có những thế giới nhiễm ô của chúng sanh? Làm gì để “chuyển biến” thế giới nhiễm ô thành thế giới thanh tịnh?
(Xem: 3014)
Tôi không cần giải thích tại sao bạn cần phải thực hành Pháp; tôi nghĩ bạn hiểu điều đó.
(Xem: 2631)
Thế giới chúng ta đang sinh sống ắt phải nằm trong “Hoa tạng thế giới”, tức là thế giới Hoa Nghiêm
(Xem: 3532)
Việc thẳng tiến bước trên con đường đạo lý thanh cao hầu đạt đến chân lý hạnh phúc chẳng khác nào bơi ngược dòng đời là một vấn đề...
(Xem: 3363)
Chúng ta thấy một sự vật bằng cách thấy màu sắc của nó và nhờ màu sắc ấy mà phân biệt với những sự vật có màu sắc khác
(Xem: 4196)
Tiếng Sankrit là Drama (tiếng Tạng là: cho) nghĩa là giữ lấy hoặc nâng đỡ. Vậy Pháp nâng đỡ hoặc duy trì cái gì?
(Xem: 3710)
Trong những nhà phiên dịch kinh điểnthời kỳ đầu của Phật giáo Trung Quốc, ngài Đàm-vô-sấm (曇無讖) hiện ra như một nhà phiên kinh trác việt[1].
(Xem: 4262)
Khi chúng ta mới học lần đầu rằng cứu cánh của sự tu tập đạo Phật có tên gọi là Nibbana (Nirvana, Niết-bàn),
(Xem: 2350)
“Đức Phật nói: Như vậy, như vậy, như lời ông nói. Tu Bồ Đề! Nhất thiết chủng trí, chẳng phải là pháp tạo tác, chúng sanh cũng chẳng phải là pháp tạo tác.
(Xem: 3506)
Đức Phật cho rằng, bạn phải quan sát hơi thở như nó đang là-yathabhuta. Nếu hơi thở dài, bạn biết nó dài, nếu hơi thở ngắn, bạn biết nó ngắn.
(Xem: 4188)
Tâm là kinh nghiệm cá nhân, chủ quan về “điều gì” luôn luôn thay đổi, từ khoảnh khắc này đến khoảnh khắc khác.
(Xem: 3966)
“Cánh cửa bất tử đã mở ra cho tất cả những ai muốn nghe”, đây là câu nói của Đức Phật sau khi Ngài giác ngộ.
(Xem: 2900)
Trong các kinh thường ví chân tâm là viên ngọc, như viên ngọc như ý, viên ngọc ma ni, lưới Trời Đế Thích…Bài kệ này chỉ thẳng Viên Ngọc Tâm
(Xem: 3376)
Trong Nguồn thiền, Tổ Khuê Phong Tông Mật nói: “Người ngộ ngã pháp đều không, hiện bày chân lý mà tu là thiền Đại thừa”.
(Xem: 3515)
Trong Kinh Văn Thù quyển hạ có chép: Ngài Văn Thù thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn thì đệ tử của Ngài phân hóa bộ phái như thế nào?
(Xem: 4568)
Vấn đề Nam tôngBắc tông là một vấn đề tương đối rất cũ – cũ đến hơn một ngàn năm trăm năm kể từ ngày con người có được cái hạnh phúc biết đến giáo pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 3897)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”
(Xem: 4786)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 4060)
Mất 11 năm khổ công tầm đạo, Đức Phật Thích Ca đã đạt đại giác ngộ sau 49 ngày quyết tâm thiền định dưới cội cây bồ đề.
(Xem: 3048)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”...
(Xem: 3794)
Một người không có trí nhớ, hoặc mất trí nhớ, cuộc đời người ấy sẽ ra sao?
(Xem: 3939)
Chí đạo vốn ở tâm mình. Tâm pháp vốn ở vô trụ. Tâm thể vô trụ, tánh tướng tịch nhiên, chẳng phải có chẳng phải không, chẳng sanh chẳng diệt.
(Xem: 3108)
Trước khi nhập Niết-bàn, đức Phậtdi giáo tối hậu cho các chúng đệ tử: “Pháp và Luật mà Ta đã thuyết và qui định, là Đạo Sư của các ngươi sau khi Ta diệt độ.”
(Xem: 3629)
Phật giáo là một tổ chức cộng đồng (Samasambhaga) ra đời sớm nhất trong lịch sử nhân loại (-5 CN).
(Xem: 4470)
Đức Phật, một nhân vật lịch sử 3000 năm về trước, ra đời tại Bắc Ấn, là bậc giác ngộ toàn triệt, là bậc đạo sư với nghi biểu đặc biệt xuất hiện ở đời.
(Xem: 3743)
Con người sanh ra để hưởng thụ qua lục dục như tài, sắc, danh, thực, thùy (Ngủ nghỉ), .v.v. Con người trải qua một chu kỳ già, bệnh và cuối cùng là chết.
(Xem: 2274)
Nguyên bản: Teachings On The Eight Verses On Training The Mind. Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma . Anh dịch: Thupten Jinpa. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 2643)
Phật tánh với thành Phật là hai vấn đề khác nhau, không thể đồng nhất được.
(Xem: 3053)
Kinh Tiểu Duyên (Aggaññasutta) trong tiếng Pali có nghĩa là kinh nói về nguyên nhân hay bài giảng về khởi nguyên các pháp.....
(Xem: 2741)
Đức Phật đã dạy về những sự thật này ngay khi ngài đạt đến Giác Ngộ như một phần của những gì được biết như Chuyển Pháp Luân Lần Thứ Nhất.
(Xem: 4609)
“Thiên đường có lối sao chẳng đi Địa ngục không cửa dấn thân vào”
(Xem: 4942)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 2841)
Kính lễ đạo sư và đấng bảo hộ của chúng con, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát! Sự thông tuệ của ngài chiếu soi như mặt trời, không bị che mờ bởi vọng tưởng hay dấu vết của si mê,
(Xem: 5305)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm
(Xem: 2870)
Trong phẩm Ứng Tận Hoàn Nguyên kinh Đại Bát Niết Bàn, nói về sự nhập Niết bàn của Đức Phật.
(Xem: 3309)
Trong số các vị Tổ sư của Thiền phái Vô Ngôn Thông, Viên Chiếu được xem là vị Thiền sư danh tiếng, lỗi lạc bậc nhất.
(Xem: 4394)
Nguyên tử giải phóng trở thành nguyên tử năng là đánh dấu thời đại đại phát minh của nhân loại. Là họa hay là phước tạm thời không bàn luận đến.
(Xem: 4962)
Luân hồinhân quả là hai sự kiện tương quan. Bởi chúng sanh còn nghiệp trái của nhân quả thiện ác nên mới bị luân hồi.
(Xem: 4722)
“Tướng” là cái gì? “Tướng” chính là tướng trạng của sự vật biểu hiện nơi ngoài và tưởng tượng ở nơi trong tâm chúng ta.
(Xem: 3262)
Kính Pháp Sư Hiền Đức, tôi là một tu sĩ đạo hiệu Thích Thắng Hoan có vài lời tâm niệm gởi đến Pháp Sư, một hôm tôi đến chùa...
(Xem: 4570)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 4294)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 6161)
Mùa xuân là dịp để trở về, dừng bước chân hoằng hóa để quán chiếu mọi nhân duyên giữa đời.
(Xem: 3528)
Bản Pháp văn mà tôi giới thiệu ở đây, không phải là toàn văn được in trên giấy, mà chỉ là một phần gọn nhẹ và cô đọng, cắt bớt những giới luật khá khắt khe khó tiếp cận với người Tây phương, nên giản dị và dễ đi vào lòng người.
(Xem: 4051)
Trước đây rất lâu từ những năm 1930, người ta đã chất vấn, phê phán rằng những người theo Phật giáo không biết làm giàu.
(Xem: 6034)
Trong không gian mênh mông của vườn kinh điển Đại Thừa, Diệu Pháp Liên Hoa là đoá hoa vi diệu nhất mà chính Đức Thế Tôn đã ca ngợi
(Xem: 5434)
Trong cuộc sống, nếu một người mất đi niềm tin sẽ trở nên vị kỷ, bất cần và gặt hái khổ đau, dễ dàng bị tác động vào những...
(Xem: 4081)
Đức Phật đã dạy: "Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh." Tất cả mọi loài, ai cũng có cái tánh làm Phật. Mình hiểu lời Phật dạy một cách nôn na như vậy.
(Xem: 33160)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 3186)
Ngày nay, vấn đề kỳ thị chủng tộc, giai cấp, giới tính được con người quan tâmtranh đấu quyết liệt hơn bao giờ hết.
(Xem: 4175)
Phật tánhthực tại tối hậu của chúng sanh và các bậc giác ngộ. Kinh Đại Bát Niết Bàn đã dùng nhiều từ để chỉ Phật tánh này
(Xem: 4748)
Kinh Biệt Giải Thoát Giới - tên gọi khác của Kinh Tư Lượng (Anumāna Sutta) - là bài kinh thứ mười lăm trong Majjhima Nikāya
(Xem: 3107)
Trong suốt hai ngàn năm lịch sử, đạo Phật luôn luôn có mặt trong lòng dân tộc Việt Nam khắp nẻo đường đất nước và gắn bó với dân tộc Việt Nam trong mọi thăng trầm vinh nhục.
(Xem: 3828)
Có nhiều bài kệ rất hay khi xướng lên hay khi tán tụng; hoặc giả khi mạn đàm Phật Pháp; nhưng cũng có lắm bài kệ...
(Xem: 3561)
Từ nhỏ, lúc mới vào chùa khi 15 tuổi của năm 1964 và năm nay 2020 cũng đã trên 70 tuổi đời và hơn 55 năm sống trong Thiền Môn
(Xem: 6565)
Duy Thức Học được gọi là môn triết họcmôn học này nhằm khai triển tận cùng nguyên lý của vạn hữu vũ trụ nhân sanh mà vạn hữu vũ trụ nhân sanh...
(Xem: 2789)
Vấn đề thế giới địa ngụcvấn đề rất nhiều nghi vấn, những người theo đạo Phật thì tin có thế giới địa ngục, những người không theo đạo Phật thì không tin có thế giới địa ngục và có một hạng người thì nửa tin nửa ngờ.
(Xem: 3247)
Vấn đề tụng niệm một số người không nắm được giá trịnghĩa lý của nó nên có thái độ khinh thường, xem nhẹ, không quan tâm, không chú trọng cho việc làm này...
(Xem: 4602)
Phật tại thế thời ngã trầm luân, Kim đắc nhân thân Phật diệt độ, Áo não tự thân đa nghiệp chướng, Bất kiến Như Lai kim sắc thân.
(Xem: 3474)
Có những bài tán nghe qua là hiểu liền nội dung; nhưng cũng có những bài tán rất khó hiểu, không biết lý do vì sao? Trong đó có bài tán “Chiên Đàn” là một.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant