Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật giáo Nhật Bản có những tông phái nào?

05 Tháng Tám 201820:59(Xem: 7125)
Phật giáo Nhật Bản có những tông phái nào?
Phật giáo Nhật Bản có những tông phái nào?
Hà Yên Sinh
Thích Trung Nghĩa dịch
Phật giáo Nhật Bản có những tông phái nào?
Phật giáo du nhập Nhật Bản vào thế kỷ thứ VI, sau đó trải qua thời kì Nara (710~785), thời kì Heian (794~1192) cho đến thời kì Kamakura (1192~1380), trước sau khoảng 700 năm, rồi phát sinh rất nhiều tông phái.
Thời kì Nara có 6 tông phái: Tam luận, Pháp tướng, Hoa Nghiêm, Luật tông, Thành thật, Câu-xá, gọi là “Nam đô lục tông” (南都六宗), Đại tạng kinh chữ Hán cũng truyền nhập thời kì này. Thời kì đầu Heian có 2 tông: Hoa nghiêm, Chân ngôn, gọi là “Heian nhị tông” (平安二宗). 8 tông phái này chủ yếu là tín ngưỡng của thượng tầng quý tộc trong xã hội lúc đó.

Đến thời kì Kamakura thì Thiền tông, Tịnh độ tông, Nhật Liên tông nối tiếp phát triển, Phật giáo bắt đầu lưu hànhnhân gian. Sau khi Phật giáo du nhập, đã kết hợp với văn hóa truyền thống Nhật Bản, rồi hoạch đắc phát triển mới, hình thành một số tông phái dân tộc hóa. Trên lịch sử, Phật giáo phát sinh ảnh hưởng to lớn đối với văn hóa Nhật Bản, mãi đến ngày nay, Phật giáo trên xã hội Nhật Bản vẫn có sức mạnh khá lớn. Để hiểu rõ Phật giáo Nhật Bản, nay giới thiệu ngắn gọn các tông phái chính Phật giáo Nhật Bản sau đây.

Tông phái thời kì Nara và Heian

Tam luận tông:do Tuệ Quán sáng lập. Tuệ Quánđệ tử của ngài Cát Tạng ở chùa Gia Tường. Sư đến Nhật Bản năm 625 sau Tây lịch, ở chùa Nguyên Hưng thời kì Asuka và giảng truyền Tam luận, bắt đầu kiến lập Tam luận tông, trở thành vị khai tổ đầu tiên về tông phái Phật giáo Nhật Bản. Sư có nhiều đệ tử rất có tiếng như Phước Lượng, Trí Tạng, Đạo Từ, họ từng đến triều nhà Đường để học tập Tam luận, thông thường hợp ba người này lại gọi là ‘Tam truyền’ (三传) của Tam luận tông. Tam luận tông nhấn mạnh nghiên cứu lý luận, xem nhẹ thực tiễn tôn giáo, nên lưu truyềnNhật Bản không lâu sau thì lần lượt bị tàn lụi. 

Pháp tướng tông:Pháp Tướng tôngNhật Bản có Tứ truyền. Thứ nhất là Đạo Thiệu. Sa môn Đạo Thiệu ở chùa Nguyên Hưng thời Nara, năm 653 sư đi theo sứ giả đến triều nhà Đường, làm học trò học tập với ngài Huyền Trang. Sư ở đất Hán 7 năm, sau đó về nước ở chùa Nguyên Hưng, hoằng tuyên rạng rỡ học thuyết Pháp tướng. Truyền thứ hai là Trí Thông, Trí Đạt. Hai người này cùng dong thuyền đi đường biển đến đất Hán vào năm 658, bái kiến ngài Huyền Trang, tôn ngài Khuy Cơ làm để học giáo nghĩa Pháp tướng, học xong về nước, sau truyền sở học.

Truyền thứ ba là các vị: Trí Phụng, Trí Loan, Trí Hùng. Họ phụng chỉ đến triều Đường, học giáo nghĩa Duy thức với ngài Trí Chu, sau về nước hoằng rộng Duy thức. Truyền thứ tư là Huyền Phưởng, sư là đệ tử được Trí Phụng truyền lại, năm 717 sư vâng lệnh dong thuyền đến đất Hán, học tập giáo nghĩa Pháp tướng với ngài Trí Chu, ở đất Hán 18 năm, được hoàng đế Mông Huyền tông sắc ban ca-sa, đến năm 734 thì mang tạng kinh có được về nước, ở chùa Hưng Phước, hoằng rộng sở học. Xưa nay người ta gọi chung hai vị đầu là “Nam tự truyền” (南寺传) hoặc “Nguyên hưng tự truyền” (元兴寺传), gọi chung hai vị sau là “Bắc tự truyền” (北寺传) hoặc “Hưng phước tự truyền” (兴福寺传). 

Hoa Nghiêm tông: do Đạo Duệ thời Đường truyền nhập Nhật Bản. Đạo Duệ là tăng lữ ở chùa Đại Phước Tiên trong thành Lạc Dương. Sư nhận lời yêu cầu của tăng sĩ Vinh Duệ và Phổ Chiếu mà đến Nhật Bản. Năm 736, sư đem chương sớ Hoa Nghiêm qua Nhật Bản, hoằng dương Hoa Nghiêm.

Lúc đó cao tăng Triều TiênThẩm Tường cũng đến Nhật Bản, ở chùa Đại An, tinh thông giáo nghĩa Hoa Nghiêm tông, năm 740 lần đầu tiên Thẩm Tường giảng Hoa Nghiêm kinh trong đạo tràng chùa Kim Chung, là sơ tổ Hoa Nghiêm tông Nhật Bản, Hoa Nghiêm tông từ đó bắt đầu phát triển. Đến thời kì Kamakura, tuy nhiên có trở ngại, việc hoằng truyền của cao tăng gặp khó khăn, nên họ chỉ dừng lại ở trên nghiên cứu giáo nghĩa, mà chưa phổ cập dân gian, nên giáo nghĩa dần mờ nhạt. Chùa Tōdai-ji ở Nara là biểu trưng cho tông này.      

Luật tông:do Giám Chân thời Đường sáng lập. Sa-môn Nhật Bản là Vinh Duệ và Phổ Chiếu đến Đất hán vào năm 733 để cầu học giới luật, lúc đó nghe Giám Chân ở chùa Đại Minh trong Dương châu là bậc danh đức luật học đương thời, rồi dần dà lòng thành mời sư đến Nhật Bản hoằng hóa. Ban đầu sư đến Nhật Bản, tức là vào năm 743, sư cùng với đệ tử đem phẩm vật kinh sách lên thuyền đi về phía Đông, sáu lần vượt biển, gặp gian khổ chín chết một sống vẫn không rút lui, chịu mọi gian nan, cuối cùng đến Nhật Bản vào năm 753, được tăng tục triều đình Nhật Bản hân hoan đón rước.

Năm sau sư đến kinh sư. Thiên hoàng hạ chiếu an trí ở chùa Tōdai-ji, hưng kiến giới đàn. Thiên hoàng, hoàng hậu và hoàng thái tử cùng hơn 400 người đăng đàn thọ giới bồ-tát, những tăng sĩ Nhật Bản như Linh Dụ, Hiền Giới, Chí Trung đều bỏ giới củ mà thọ giới mới, đó là giới đàn truyền giới đầu tiên ở Nhật Bản. Năm 757, để có phương tiện luật học, sư xây chùa Chiêu Đề ở Nara, rồi kiến lập giới đàn. Sư là vị sơ tổ sáng lập Luật tông Nhật Bản. Sau đó, theo biến thiên năm tháng mà tông phong chìm lắng, thời gian lâu vẫn không mở giới đàn.    

Thực ra, ngoài Tứ tông ra, còn có Thành thật tôngCâu-xá tông. Thành thật tông do tăng sĩ người Triều TiênTuệ Quán thời Tùy sau khi đem Thành thật luận truyền nhập Nhật Bản, giảng tập ở Nhật Bảnlần lượt hình thành tông phái. Câu-xá tông do tăng Nhật BảnĐạo Chiêu, Trí Thông, Trí Đạt đến triều Đường rồi đem Câu-xá luận truyền vào Nhật Bản, sau đó giảng thuật rạng rỡ mà hình thành tông phái. Nhưng mà, nguồn gốc hai tông này chỉ là dựa trên Tam luận tôngPháp tướng tông mà thôi, chưa có hoằng truyền độc lập, cũng chưa được đặc biệt xem trọng.     

Thiên Thai tông: Tối Trừng (còn gọi là đại sư truyền giáo, 767~822) là vị sáng lập Thiên Thai tôngNhật Bản. Năm 840, sư dong thuyền đến đất Hán, rồi học tập giáo nghĩa Thiên Thai với Đạo Thúy và Hạnh Mãn, được Đạo Thúy truyền bồ-tát giới, rồi đến học thiền pháp với Pháp Dung trên núi Ngưu Đầu. Năm sau lại đến học tập Mật giáo với a-xà-lê Thuận Hiểu ở chùa Linh Nham, rồi thọ quán đỉnh Mật giáo. Đầu năm Thiên Hựu thời Đường, pháp môn mà sư đã học, nghiêng về bốn tông: Thiên thai tông, Chân ngôn tông, Thiền tông, Giới luật tông, nên gọi là “Tứ tông tương thừa”.

Sư về nước năm 805, ở núi Hiei, khai sáng Thiên Thai tông Nhật Bản, viết cuốn Đường quyết tập (唐诀集), Thủ hộ quốc giới chương (守护国界章), cuộc đời viết hơn 280 bản văn, sau khi viên tịch được vua phong thụy là “Truyền Giáo đại sư”. Trong số đệ tử của sư, có Viên NhânViên Trân cũng nối tiếp đến triều Đường cầu pháp, sau khi về nước, đã hoằng truyền rạng rỡ giáo nghĩa Thiên ThaiChân Ngôn tông, thúc đẩy Thiên Thai tông phát triển mau chóng ở Nhật Bản, đến nay vẫn thịnh không suy.     

Chân Ngôn tông: do không Hải sáng lập. Năm 804, Không Hải (774~835) đi cùng Tối Trừng theo sứ thần đến triều Đường, đến ở chùa Thanh Long trong thành Trường An, lạy a-xà-lê Huệ Quả làm thầy, được nhận hai bộ “Đại mạn-đà-la bí Mật pháp”, và được vị a-xà-lê truyền quán đỉnh, đồng thời còn ưa học ‘Tất đàm’ với tam tạng Bát-nhã. Năm Chí Đức thời Đường, sư mang về nước hơn 100 điển tịch nội điểnngoại điển, hoằng truyền rạng rỡ Mật giáo, được triều đình tôn sùng.

Sư khai sáng Chân Ngôn tông, mở mang đạo tràng căn bản trên núi Koya, viên tịch năm 835, vua sắc thụy hiệu “Hoằng Pháp đại sư”. Sư viết Bí mật mạn-đà-la giáo phú pháp truyện (秘密曼茶罗教付法传), Biện hiển mật nhị giáo luận (辨显密二教论), cuộc đời sư viết hơn 150 bản. Sư có các đệ tử như Thưởng Hiểu, Viên Hạnh cũng nối gót đến đất Hán cầu pháp, sau khi về nước, hoằng truyền sở học, nên mang tác dụng rộng lớn trong việc phát triển Chân ngôn tông Nhật Bản

Như trên đã trình bày, thời kì Nara và Heian là sơ truyền và giai đoạn hấp thu của Phật giáo Nhật Bản, trước sau thành lập các tông phái lớn đều trực tiếp hoặc gián tiếp do từ Trung Quốc truyền nhập, còn về giáo nghĩa thì kế thừa từ Phật giáo Trung Quốc mà không có đột phá mới. Tồn tạilưu truyền của các tông phái này, một mạch được xem là tư tưởng văn hóa mang tính chỉ đạo một dạng chính trị, tiếp nhận từ việc bảo vệ đất nước và quý tộc, rõ ràng có đủ tính quý tộc, nhưng không có nền tảng dân chúng. 

Tông phái mới được hưng khởi thời kì Kamakura: Thời kìKamakura, Phật giáo bắt đầu kết hợp với tín ngưỡng dân gian Nhật Bản, rồi gặt hái được phát triển mới, tiếp tục hưng khởi Tịnh độ tông, Chân tông, Nhật Liên tôngThiền tông mang đầy đủ đặc thù dân tộc Nhật Bảntiếp tục hưng khởi. Những tông phái này, đều hướng đến việc truyền giáo cho dân chúng làm trọng điểm, trên giáo nghĩa thì xây dựng một hệ thống lý luận ách yếu gọn rõ để dân chúng dễ tiếp thu, chú trọng tư tưởng tín ngưỡng, từ đó phát triển nhanh chóng, nên gọi là “Kamakura tân Phật giáo” (鎌仓新佛教) hoặc “Nhật Bản Phật giáo (日本佛教).

Tịnh Độ tông: Pháp Nhiên (pháp danh Nguyên Không) là người sáng lập Tịnh Độ tông Nhật Bản. Pháp Nhiên (1133~1212), năm 13 tuổi lên núi Hiei xuất gia, theo a-xà-lê Hoàng Viên để học tập, nghiên cứu về huyền chỉ nhị môn: giáo, quán. Sau đó đến học hỏi các danh tăng, nghiêng về nghiên cứu Phật giáo, người thời đó gọi Pháp Nhiên là: “Tọa chủ Pháp Nhiên trí tuệ đệ nhất” (智慧第一法然座主). Từ lúc sư đọc đến đoạn “Nhất tâm chuyên niệm danh hiệu Di-đà” trong cuốn Quán kinh tán thiện nghĩa (观经散善义) của ngài Thiện ĐạoTrung Quốc, mà có nhiều sở ngộ.

Năm 1175, sư khai sáng Tịnh Độ tông Nhật Bản “Nhất hướng chuyên tu tông”. Sư chưa từng đến Trung Quốc, nhưng lập tông khai giáo của sư được kế thừa tư tưởng Tịnh độ của ngài Thiện Đạo thời Đường Trung Quốc. Thông qua phán giáo của hệ thống, có thể thấy được ngoài các tông phái ra, còn sáng lập các hệ phái độc lập. Sau đại sư Không Hải sáng lập Chân Ngôn tông, có thể nói sư là người số một.

Sư viết cuốn Tuyển trạch bổn nguyện niệm Phật tập (选择本愿念佛集), luận thuật tôn chỉ của việc sáng lập Tịnh Độ tông, và công khai tuyên ngôn “Ta dựa vào bậc thầy Thiện Đạo, mà khai sáng Tịnh độ tông”. Sư chỉ định Vô Lượng Thọ kinh, Quán Vô Lượng Thọ kinh, A-di-đà kinhVãng sanh tịnh độ luận của ngài Thiên Thân là “Tịnh độ tam kinh nhất luận” để thành lập giáo nghĩa tịnh độ, chủ trương “xưng danh niệm Phật” liền  có thể vãng sanh Tây phương. Tịnh Độ tông sau đó phân ra hai phái lớn là: Trấn Tây phái, Tây Sơn phái. Sư có rất nhiều đệ tử, trong đó Thân Loanđệ tử rất nổi tiếng.     

Tịnh độ Chân tông:gọi tắt là Chân tông, do đệ tử của Pháp NhiênThân Loan sáng lập. Thân Loan (1173~1262) người Kyōto, xuất thân quý tộc, mẹ mất sớm từ nhỏ, sau  đến xuất gia với tăng chánh Viên Từ ở Thanh Liên viện, rồi có là pháp danh Phạm Yến, ở núi Hiei 10 năm, còn đến Nara để nghiên cứu tham học với luận sư các tông như Tam luận, Pháp tướng. Sau đó nghe Pháp Nhiên tuyên dương pháp môn dễ thực hành niệm Phật, sư lập tức đến thảo am Cát Thủy lạy xin Pháp Nhiên truyền dạy, và đổi tên là Xước Không. Lúc 31 tuổi, sư kết hôn với con gái quý của Kujō Kanezane, trở thành tăng sĩ có vợ đầu tiên ở Nhật Bản, cũng là bắt đầu cho quan hệ phát sinh giữa Chân tôngquý tộc.

Sau đó do từ việc phát sinh hai tăng sĩ: Trụ Liên, An Lạc phạm giới xuất giadâm dục với cung nữ, dẫn đến sư và họ bị đuổi khỏi, bị lưu đày đến Echigo (nay là Niigata), rồi sư tự xưng là “Ngu Thốc Thân Loan” (愚秃亲鸾). 5 năm sau thì gặp lúc Pháp Nhiên viên tịch, sư chuyển tới Tōhoku Nhật Bản để truyền giáo, rồi lấy họ là Ngu Thốc, chính thức đổi tên là Thân Loan. Sư viết bộ Giáo hạnh tín chứng văn loại (教行信证文类) gồm 6 quyển, là giáo điển căn bản để lập giáo khai tông. Sư nhấn mạnh ‘người ác’ cũng có thể vãng sanh Tây phương, dẫn đến dân chúng ưa chuộng. Chân tông về sau phát sinh rất nhiều hệ phái, chùa Hongan-ji và Otani phái rất có ảnh hưởng.  

Nhật Liên tông:còn gọi là Pháp Hoa tông, do Nhật Liên sáng lập. Nhật Liên xuất gia năm 16 tuổi, đạo hiệu là Thánh Phòng Liên Trưởng. Nhật Liên trước sau tới học tập ở các nơi như Kamakura, Kyōto, Nara, Cao Dã. Năm 1253, sư ở chùa Thanh Trừng sáng lập Nhật Liên tông. Chủ trương lấy Pháp Hoa kinh làm kinh điển dựa vào chính yếu, tuyên dương công đức theo Pháp Hoa kinh, chỉ có tuyên thuyết đề mục Pháp Hoa kinh và xướng niệm “Nam mô Diệu Pháp Liên Hoa kinh”, mới có thể cứu vớt chúng sanh, nên lần lượt ảnh hưởng nhiều trong xã hội dân chúng.

Sư viết cuốn Lập chánh an quốc luận (立正安国论), ra sức bài bác công kích các tông phái như: Tịnh độ, Thiền, Chân Ngôn. Sư nhiều lần dâng sớ lên triều đình Mạc phủ Tokugawa, thỉnh cầu ngăn cấm, sau đó bị phải Mạc phủ Tokugawa phán xét sư mang “Tội cuồng ngôn mê hoặc người”, nên sư nhiều lần bị lưu đày. Từ thế kỷ XIX về sau, trong Nhật Liên tông phát sinh ra nhiều tông phái mới hưng thịnh, như sáng lập Hội Soka Gakka, hội Risshō Kōsei Kai, hội Linh Hữu, đều thuộc ba chi phái hệ Nhật Liên tông. Những hệ phái thịnh hành mới này, đến nay chiếm hữu thế lực khá mạnh trong xã hội Nhật Bản.    

Thiền tông:Thiền tông Nhật Bản chia ra: Lâm Tế tôngTào Động tông, hai chi phái lớn đại khái như hệ thống Thiền tông Trung Hoa. Lâm Tế tông do tăng sĩ Nhật Bản Vinh Tây truyền nhập, Tào Động tông do tăng sĩ Nhật Bản Đạo Nguyên truyền nhập. Vinh Tây (1141~1215) từ năm 1168 và năm 1186 đã hai lần đến triều Tống, rồi tham học với các Thiền sư ở trên các ngọn núi Thiên Thai, Lư Sơn, Dục Vương, Thiên Đồng, sau đó đến ở chùa Vạn Niên trên núi Thiên Thai, yết kiến Thiền sư Hư Am, được truyền tâm ấn Lâm Tế, còn trao giấy chứng nhận và y cụ làm ấn tín.

Sau sư về nước thì lập hai chùa, phát triển sáng soi thiền học, đồ chúng tập trung, chủ trương ‘khán thoại thiền’, viết cuốn Hưng Thiền hộ quốc luận (兴禅护国论), cuộc đời sư viết 9 quyển, 7 bộ, trở thành tông phái mới Lâm Tế tông Nhật Bản. Lâm Tế tông hiện nay còn chia ra 15 hệ phái, Diệu Tâm tự pháiKiến Trường tự phái là có ảnh hưởng rất lớn.

Đạo Nguyênđệ tử do Vinh Tây truyền lại, cũng đến triều Tống vào năm 1233, trải qua tham học các Thiền sư ở trên các núi Thiên Đồng, Thiên Thai, Kinh sơn, sau đó được Thiền sư Như Tịnh ở chùa Cảnh Đức trên núi Thiên Đồng chỉ điểm bèn hoát nhiên khai ngộ, được ấn chứng, thọ truyền bí ẩn và tấm ảnh y cụ, về nước năm 1227, lập chùa Vĩnh Bình trên núi Tản Tùng, hoằng rạng rỡ thiền học, nhấn mạnh tu ‘mặc chiếu thiền’, đề xướng không “Cứ việc ngồi thiền, tức tâm là Phật”, viết cuốn Chánh pháp nhãn tạng (正法眼藏), cuộc đời sư viết 118 quyển, 9 bộ sách, xiển dương tôn chỉ Tào Động, sáng lập Tào Động tông Nhật Bản.    

Thiền sư Ẩn Nguyên thời Minh qua Nhật Bản khai sáng Hoàng Bá tông, và cùng với Lâm Tế, Tào Động mà lập thế chân vạc thành ba, tông phong đại khái tương đồng với Lâm Tế, cũng có xướng tụng, pháp thức âm thanh lời kinh, cũng có thay đổi quy cách phong thái, lúc đó trong chùa khích lệ sôi nỗi phong trào học vấn, cơ cấu giáo dục học vấn và nghĩa học các tông phái cũng theo thời cuộc mà phát triển. Hoạt động giáo dục rầm rộ, nhân tài xuất hiện rất nhiều trong các tông phái. Phật giáo Nhật Bản lần lượt hình thành: quốc gia hóa, xã hội hóa, gia đình hóa, chia rõ tông pháihiện đại học thuật hóa, dẫn đến đặc chất Phật giáo liên quan mật thiết đến đất nước và dân chúng.   

Bản văn trích lục từ tạp chí “Pháp âm”    

***

Tiến sĩ triết học Hà Yên Sinh (1962~?), Giáo sư tôn giáo học Đại học Women's Kōriyama (Koriyama Women's University) Nhật Bản. Lĩnh vực nghiên cứu của ông là tỉ giảo tôn giáo học, đối thoại tôn giáo, nghiên cứu tôn giáo, sử tư tưởng Phật giáo, thiền học Đông Á; soạn viết nhiều tác phẩm bằng tiếng Nhật Bản và tiếng Hán. Giới nghiên cứu Phật giáoTrung QuốcÂu Mỹ đánh giá ông là “Một vị học giả Phật giáo nổi tiếng có đủ tiêu chuẩn quốc tế” (theo Học viện triết học đại học Vũ Hán)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8290)
Niết bàn thì ở khắp mọi nơi, ít nhất là đối với những người nói tiếng Anh. Từ ngữ nầy đã được dùng trong Anh Ngữ với ý nghĩa là "hạnh phúc" hoặc "bình yên".
(Xem: 9155)
Thần thông của Đức Phật là một trong những đề tài thu hút người viết và lôi cuốn người đọc. Từ trước đến nay, đã có nhiều bài viết đề cập đến vấn đề này.
(Xem: 8038)
Một số người tái-sinh lên làm người (sinh từ bào thai trong bụng mẹ), người độc-ác tái-sinh xuống địa ngục, người hiền-lành tái-sinh lên cõi trời, và người không-còn ô-nhiễm, sống hoàn-toàn an-lạc nơi cõi Niết Bàn.
(Xem: 16248)
Khoa học thần kinh ngày hôm nay đã chứng minh một cách khách quan và cụ thể rằng chánh niệm (samma-sati) là con đường trực tiếp nhất để gạt bỏ vọng tưởng về cái "ta"
(Xem: 15773)
Trong các ngành khoa học, rất có thể khoa học thần kinh (neurosciences) sẽ là ngành phát triển mạnh và gây nhiều ảnh hưởng nhất trong những thập niên tới.
(Xem: 7990)
Sự kiện Đức Phật nhập Niết-bàn thường được các giới Phật giáo tổ chức thành một lễ hội thiêng liêng.
(Xem: 7993)
Từ trước đến nay không có một tôn giáo, triết họctâm lý học nào phân tích tâm đầy đủ rõ ràng như Phật Giáo.
(Xem: 8713)
Mục đích của Đạo Phậtdiệt khổ và đem vui cho mọi loài, nhưng phải là người có trí mới biết được con đường đưa đến an lạchạnh phúc.
(Xem: 7883)
Kinh Hoa sen pháp diệu là dịch nghĩa từ tiếng Phạn Saddharmapuṇḍarīka-sūtra, và được dịch ra tiếng Trung Hoa bởi nhiều dịch giả.
(Xem: 7483)
Chẳng đồng nhất, chẳng dị biệt, chẳng đoạn diệt, chẳng thường hằng: đây là các giáo pháp bất tử của chư Phật, chư thượng thủ của thế giới.
(Xem: 9303)
Theo Phật Giáo, tâm tư duy (Tâm phan, như vệ tinh quả đất, định tinh mặt trời, và vô lượng thiên hà) có thể sinh ra trong không gian thời gian...
(Xem: 8559)
Trong cuốn giáo thuyết về linh hồn của Phật Giáo, Soul theory of the Buddhist, Giáo Sư Stcherbatsky, ghi nhận rằng...
(Xem: 8604)
Bất kì một sự vật gì tùy thuộc vào một nguyên nhân thì duyên hội thành một hiệu quả.
(Xem: 11876)
Đức Phật đã giải thích nguồn gốc của thế giới, vũ trụ, vạn vật, là do nghiệp quả (cause & effect) hấp dẫn cùng với sức thu hút bởi 12 nhân duyên
(Xem: 7494)
Ngũ uẩn hay là Ngũ ấm chỉ là năm (pañca) nhóm (skandha) tượng trưng cho năm yếu tố tạo thành con người, toàn bộ thân tâm...
(Xem: 8270)
Tạng Quang Minhcon đường đi của ánh sáng, cùng với năng lượng (chân hỏa tam muội, energy) và sắc tướng (mass) là phương tiện thần thông để du hành trong vũ trụ.
(Xem: 11713)
Nguyên văn đoạn kinh trong phẩm Phật-đà, Tương ưng bộ, như sau: “Này các Tỳ-kheo, thế nào là lý duyên khởi?
(Xem: 7396)
Phật Pháp được chia ra làm bốn thể loại là Giáo, Lý, Hành và Quả.
(Xem: 8990)
Tâm người bị ba thứ độc tố trói buộc, chính vì vậy chúng ta không sao vượt thoát được cảnh trầm luân khốn khổ. Chúng ta bị mắc kẹt trong phiền não của ba độc
(Xem: 8408)
Trong ý niệm này là sự bất biến thiên được hiểu như là một sự tướng trạng hoá của thật tướng của các sự vật.
(Xem: 10023)
Mọi tôn giáo đều tin rằng có sự sống sau khi chết, tức có kiếp sau của một ‘linh hồn’ thật sự. Học thuyết Phật giáo nên được phân biệt trong...
(Xem: 9656)
"Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm" là một câu kinh rất ngắn trong cả quyển kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật rất nổi tiếng được giới học Phật trích dẫn nhiều nhứt.
(Xem: 9602)
Mọi tồn tại đều vốn có Tự tính (như là bản chất) của nó. Vì rằng cái thành lập ra nó là Nhân tạo tác (Nhân) và Điều kiện tạo tác (Duyên) cũng tồn tại,
(Xem: 10547)
Giai đoạn đầu của Phật giáo Đại thừa được thể chứng qua sự hình thành và phát triển một văn hệ đồ sộ là Bát-nhã ba-la-mật-đa (prajñāpāramitā).
(Xem: 10140)
Căn bản trung quán luận tụng (Mūlamadhyamaka-kārikā) là một bộ luận chính trong ngôi nhà đồ sộ tráng lệ Trung Quán.
(Xem: 8221)
Cộng đồng nhân loại đã đến một điểm nghiêm trọng trong lịch sử của nó. Thế giới ngày nay khiến chúng ta phải chấp nhận nhân loại là một.
(Xem: 20246)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 8076)
Trong thế giới này cá nhân không hiện hữu, ngã cũng không hiện hữu, bởi vì chúng là các sự vật duyên khởi.
(Xem: 8560)
Đối tượng chấp thủ của tâm chấm dứt (tâm hành xứ diệt), Con đường ngôn ngữ không có lối vào (ngôn ngữ đạo đoạn).
(Xem: 9410)
Đấng Toàn Giác biết đã đến lúc sắp kết thúc kiếp sống này của Ngài. Nhưng trước khi nhập diệt, Đức Phật muốn
(Xem: 9317)
Ngã được nói đến, Để phân biệt với vô ngã. Chư Phật dạy thật tướng các pháp, Không có ngã, không có vô ngã.
(Xem: 7734)
Để giúp độc giả, tôi sẽ trình bày một bản tổng hợp giáo lý của các thuyết phục chính yếu về tôn giáotriết học của ngài Long Thọ.
(Xem: 8355)
Đây là bốn Chân lý cao quý. Này chư tăng! Những gì là bốn?
(Xem: 8201)
Do vô minh che lấp, chúng sinh tạo ba hành, nên theo ba hành nghiệp (thân, ngữ, tâm) vào luân hồi sáu cõi.
(Xem: 9023)
Hiện nay, giới nghiên cứu Phật học đang lưu tâm đến vấn đề: “Bát kỉnh pháp do Đức Phật chế ra hay do người sau thêm vào trong Tam tạng giáo điển?”.
(Xem: 8765)
Chúng ta phải hỏi điểm xuất phát là gì, chủ đề là gì, và quan tâm tối hậu của bộ luận tuyệt vời này là gì.
(Xem: 8619)
Chúng ta đang tiến dần đến đỉnh cao vĩ đại của Giáo Pháp, và mặc dù có những nguy hiểm đáng sợ đang đe doạ thế giới chúng ta.
(Xem: 10180)
Hai từ Bụt và Phật đã để lại dấu ấn sâu đậm trong ngôn ngữ lịch sử Việt Nam, vết tích còn thấy trong ca dao tục ngữ của văn hoá dân gian như...
(Xem: 8126)
Năm giớimười điều thiện được xem là cơ sở thiết lập đạo đức Phật giáo thì giới thứ hai “Không trộm cắp” là nhằm đảm bảo tính công bình và hướng tâm con người đi đến sự vô tham, vô sân, vô si.
(Xem: 8845)
Một khi tâm giác ngộ đã phát sinh, hạt giống của giáo pháp sẽ tiếp tục lớn mạnh cho dù...
(Xem: 9006)
Năm pháp, cùng tự tính, Tám thức, hai vô ngã. Hết thảy nó đều thâu nhiếp Đại thừa.
(Xem: 8449)
Nếu chúng ta có một sự sân hận lớn dễ bùng nổ và chưa rèn luyện chính mình một cách thích đáng, thế nên khi chúng ta cố gắng để...
(Xem: 7606)
Nguyên lý ở đây, là nguyên lý vô ngã, của Pháp duyên khởi, nguyên lý này ở chỗ khác, Pháp Hoa còn gọi là “vốn thường hằng tịch diệt”:
(Xem: 7515)
Chư Phật thấy các hữu tìnhbản tính tự nhiênniết bàn / bản tính niết bàn (prakrtiparinirvana; natural nirvana), vượt ngoài sầu muộn...
(Xem: 9518)
Phật giáo không bao giờ có khái niệm cõi âm hay là âm phủ. Có thể đây là những từ ngữ của tín ngưỡng dân gian
(Xem: 9880)
Tự lựctha lực là những khái niệm được đề cập rất nhiều trong Phật giáo. Những khái niệm này bao trùm...
(Xem: 8549)
Ba truyền thống Phật giáo Ấn Độ, Trung Hoa và Tây Tạng đều cho rằng Phật tánh hay Như Lai tạng là lần thuyết pháp sau cùng và cũng là cực điểm của kinh điển.
(Xem: 12285)
Tại sao gọi Tánh không duyên khởi? Nhà Phật nói tất cả pháp Tánh không, do duyên hợp thành các pháp.
(Xem: 9623)
Trước khi trở lại Tâm Kinh, hãy thử tìm hiểu thuyết vô ngã qua kiến giải của nhiều bộ phái khác nhau trong Phật giáo để...
(Xem: 7556)
Giáo huấn được mở rộng vô hạn và được tuyên thuyết đến vô lượng chúng sanh khắp các loài đủ các tính khí.
(Xem: 8863)
Sự “chuyển phước” như chỉ là một phép ẩn dụ phần nào đẹp để chỉ những gì xảy ra đối với những ảnh hưởng của hành động có kết quả tốt (puṇya), điều được gọi là “thiện nghiệp”
(Xem: 16882)
Nhập Trung Quán Luận (PDF) - Tổ Sư Nguyệt Xứng - Chuyển dịch: Thích Hạnh Tấn, TN Nhật Hạnh
(Xem: 9027)
Theo quan điểm của Phật Giáo thì mục đích của lễ bái là nhằm giúp chúng ta đến gần hơn với Đức Phật.
(Xem: 13247)
Phật giáophương cách dùng lòng Từ Bi để xóa đi, diệt đi lòng sân hận oán hờn, đó là phương thuốc diệt khổ cho vui,
(Xem: 19787)
Phật GiáoVũ Trụ Quan (PDF) - Tác giả: Lê Huy Trứ
(Xem: 8656)
Dưới đây là một bài viết của học giả Phật giáo Philippe Cornu, và cũng là bài mở đầu trong tập san "Hướng nhìn Phật giáo" (Regard Bouddhiste)...
(Xem: 9223)
Đối với Phật giáo, dana - việc bố thí - giữ một vai trò thật quan trọng, bởi vì nếu ngay từ lúc mới khởi sự tu tập mà không thực thi việc bố thí thì sẽ ...
(Xem: 8298)
“Tất cả ba cõi chỉ là Một Tâm”. Phẩm Dạ-ma cung kệ tán nói, “Như tâm, Phật cũng vậy. Như Phật, chúng sanh đồng. Tâm, Phật, và chúng sanh. Cả ba không sai khác”.
(Xem: 10193)
“Theravāda Tantra”, hay “esoteric practices of Theravāda ” là những thuật ngữ mà các học giả phương tây sử dụng để gọi các pháp hành mang tính bí truyền của...
(Xem: 9855)
Nghiệp quả: Quả chín (trên năm uẩn), * Quả tương đương với nhân,# Nghiệp quả qua hoàn cảnh
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant