Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thật….

24 Tháng Tư 201910:28(Xem: 2934)
Thật….

Thật …
Minh Mẫn

Cuộc sống, nhìn quanh đâu cũng thấy Thật. Bạo động cũng có thật, giả dối cũng là thật, tham dục cũng hiện hữu thật,sợ hải cũng có thật  ,nhiếp phục uế trược cám dỗ cũng thật, tài sản, vợ con, tình yêu, danh vọng, địa vị …đều thật hết.

Chính cái Thật đó mà khổ đau phát sanh cũng là Thật.

Kinh Sự Thật Đích Thực (do sư ông Làng Mai tuyển dịch) (Kính Diện Vương Kinh) Nghĩa Túc Kinh, kinh thứ năm, Đại Tạng Tân Tu 198 tương đương với Paramatthaka Sutta,Sutta-Nipàta 796-803

 1. Mình còn mờ mịt mà cứ nói rằng kẻ kia chẳng bằng mình. Vướng víu si mê, cứ để tháng ngày trôi qua, bao giờ mới có cơ hội thấy rõ chân lý? Chưa có pháp môn tu đạo mà cứ nói mình đã thực tập xong xuôi. Tâm còn loạn động, chưa biết hành trì, bao giờ mình mới có được kiến giải thực sự?

2. Cứ nghĩ rằng người khác phải hành trì theo cái hành trì của mình. Tự cho rằng cái thấy, cái nghe và cái thực tập của mình là không ai bằng được. Chính mình đang bị sa đọa và ràng buộc vào trong năm cái hang động dục lạc của cuộc đời mà mình vẫn cứ ba hoa nói mình hơn người.

3. Còn ôm chặt si mêvọng tưởng mà cứ tưởng rằng mình đã đạt tới chỗ chí thiện. Cái học hỏi và sự thực tập của mình còn sai lạc mà mình lại cứ ham muốn độ đời. Những gì thấy, nghe, suy nghĩ, và cả những nghi lễcấm giới mà mình hành trì, mình vẫn còn bị kẹt vào đấy, chưa thoát ra khỏi.

4. Bậc thức giả thấy người thế gian đi theo con đường ấy thì nhất quyết không chịu đi theo. Ta chỉ nên hành trì theo chánh niệm và trong khi hành trì phải hết sức thận trọng. Đừng cho rằng mình bằng người, hơn người hoặc thua người.

5. Cái bây giờ mình không nắm bắt, cái sau này cũng tuyệt đối không làm mình vướng bận. Buông bỏ mọi chủ thuyết, mọi ý tưởng, một mình đi trong tự do. Tuy vẫn có cái biết và cái thấy, nhưng thường quán chiếu để không bị kẹt vào chúng.

6. Không kẹt vào cái nhìn lưỡng nguyên, không kẹt vào ý niệm thọ mạng, ý niệm về đời này và đời sau, kẻ trí giả đi theo con đường trung đạo, quán chiếu các pháp để đạt tới thiền định chân chính.

7. Phải quán chiếu về những gì thấy, nghe và cảm nhận để đừng khởi lên tà niệm và bị kẹt vào tri giác sai lầm. Dùng trí tuệ để quán chiếu tâm ý và đối tượng tâm ý để buông bỏ được tất cả, không còn bị vướng vào một pháp nào trong thế gian.

8. Nếu các pháp đều không thực sự hiện hữu, thì còn pháp hành trì nào nữa để cho ta kẹt vào? Phải biết tìm trong pháp hành trì của mình cái đệ nhất nghĩa đế, cái sự thật đích thực. Không bị kẹt vào nghi lễgiới cấm, không cho đó là chân lý, nhờ đó mà vượt qua được bờ bên kia, không bao giờ còn trở lại chốn sinh tử.

Qua Kinh Sự Thật Đích Thực do sư ông Làng Mai diễn dịch từ 8 bài kệ, cho thấy tính chủ quan của mình khi đánh giá người khác về nhiều khía cạnh, nhất là pháp hành trì.Tự cho pháp hành của mình là đúng, người khác là sai. Còn chấp chặt si mê vọng tưởng mà ngỡ mình đã đạt đến chỗ chí thiện, ham muốn độ đời. Hành giả cần quán chiếu thoát vượt nhị nguyên để không bị vướng kẹt chấp ngã, chấp pháp bởi tri giác sai lầm.Các pháp thật sự không hiện hữu!

Tầm nhìn do định kiến được chủng tử huân tập trong quá khứ, môi trường sống và sự truyền đạt hiện tại,hướng đến xây dựng  một tương lai trên cơ sở tri giác sai lầm…tất cả đều là sự thật. Nhưng, trước cái quanh quẩn lòng vòng kiếp sống,các nhà viễn kiến khoa học đi tìm nguyên nhân ban đầu để xác định cái Thật hiện tại. Trãi qua bao giai đoạn trong quá khứ, từ một hiện tượng giản nở,Big Bang ra đời, xem đó là khởi nguyên của hiện hữu. Đối với nhiều người, Big Bang đã thay thế ý niệm về sáng tạo thế giới của tôn giáo.(Trịnh Xuân Thuận, nhà thiên văn học)   cũng lúc này, để tương thích với khoa học,dọn chỗ cho giáo lý Kito với khoa học,  năm 1951, Giáo Hoàng Pius XII đã liên kết lời Chúa dạy trong sách Sáng Thế Ký  "Hãy có Ánh sáng" với sự nổ bùng của Big Bang.Nhưng, đối với nhà khoa học kiêm tu sĩ Lạt Ma bảo rằng: Big Bang như thế chỉ giản dị là một giai đoạn nào đó trong một chuỗi dài chuyển đổi liên tục vô thuỷ vô chung…

Dĩ nhiên trước đó cũng đã sản sanh lý thuyết Thần tạo. Trong số tín hữu Thần tạo lần ra manh mối một luồng sáng mới đối nghịch với sự truyền đạt tín điều,quan kiến đó đã bị bịt đầu mối, mãi đến khi khoa học khai sáng nhiều yếu tố vừa mang tính thực dụng, vừa mang tính siêu hình; tất cả những lý thuyết quá khứ phải xét lại. Từ thế kỷ hậu bán thứ XV, khoa học chớm phát triển,mãi đến tiền bán thế kỷ XX, vật lý thực dụng giúp khoa học có bàn đạp tiến sâu vào lĩnh vực vũ trụ học, trong đó viễn vọng kính Hubble đã giúp các nhà khoa học có tầm nhìn và định lượng thoáng đạt hơn về vũ trụ.

 “Ngay từ những năm 1940, người ta đã bắt đầu nung nấu ý định về một chiếc kính viễn vọng không gian nhưng mãi đến cuối những năm 1970 thì đó vẫn chỉ là ý tưởng, đề xuất và nhiều nhất là phác thảo trên bàn giấy. ..Rồi thì qua bao nỗ lực, cuối cùng vào tháng 4 năm 1990, Hubble đã hoàn thànhchính thức phóng lên quỹ đạo từ Trạm không quân mũi Canaveral, Hoa Kỳ. Nó có thể thu nhận ánh sáng từ vật thể cách xa 12 tỉ năm ánh sáng (Kính viễn vọng không gian Hubble).

lý thuyết dây ra đời (String  Theory) Lý thuyết dây không chỉ dừng lại như là một thuyết của tương tác mạnh, mà nó còn là một thuyết hấp dẫn lượng tử. , thuyết dây là một thuyết hấp dẫn lượng tử có nền tảng toán học vững chắc, và các nhà lý thuyết hy vọng có thể đo được giá trị của hằng số vũ trụ dựa trên các tiên đề của nó.(lý thuyết dây)

 Các nhà khoa học thẩm thấu vào lý thuyết dây, vở lẽ rằng chúng cũng chỉ là sự tập hợp các nguyên tử, mà nguyên tử cũng không phải là điểm cuối cùng, chúng có đám mây di chuyển chung quanh hạt nhân trung tâm gồm proton và neutron, và bên trong proton, neutron còn có những hạt nhỏ hơn gọi là hạt quark, biến nó thành sợi dây năng lượng dao động ,chúng tạo ra các phân tử khác nhau cấu thành nên thế giới vật chất. Vì thế nếu những quan niệm này đúng, đây là khung cảnh siêu vi của vũ trụ Thật. Nó được xây dựng bởi một số lượng lớn các sợi năng lượng dao động siêu nhỏ, dao động với các tần số khác nhau. Những tần số khác nhau này tạo ra các phân tử khác nhau. Các phân tử khác nhau này chịu trách nhiệm làm nên cuộc sống giàu màu sắc quanh ta…(lý thuyết dây và sự cố gắng của nhân loại).Đây là sự Thật ư?

Vậy do đâu có string theory? Đến đây là đoạn bế tắt, các nhà khoa học vật lý cần một bước nhảy qua  một khoản không vô tận, khoản không này có thể là black hole, có thể là “duy thức học “của nhà Phật? Đây là sự           Thật !

Trong quá trình truy tầm và thử nghiệm, Lý thuyết siêu đối xứng, Lý thuyết dây là học thuyết lớn nhất, Thuyết tương đối rộng và thuyết trường lượng tử…đều là lý thuyết trừu tượng chứng minh sự hiện hữu vật thể, lúc bấy giờ  được xem những phát minh đó là Thật.Nhưng cái gì làm ra chúng???

Đến khi,nhà khoa học Brian Greene nói mọi vật kể cả chúng tacon người có thể là hình chiếu holograms, nếu “tắt đèn chiếu” đi thì mọi vật sẽ biến mất. Hình holograms là hình nổi như thật, nhưng đó chỉ là chiếc bóng không sờ đụng được, khác với hình ảnh trên màn hình, nó xuất hiện trong không gian như thật, khi tắt máy thì chúng cũng biến mất; Đây quả là bước tiến nhảy vọt không cần thông qua lý thuyết trừu tượng để chứng minh mọi vật hiện hữu chỉ là ảo ảnh, do đó, neutron, proton, hạt nhân, hạt quark…cũng chỉ là chiếc bóng chập chờn trước ống kính tâm thức bị lão hóa.Brian Greene đã chạm đến ngưỡng cửa khoa học “Duy thức” của Phật giáo. Đây là sự Thật

                                                 ***

Về khoa học vật lý mằn mò đã là thế, lòng vòng không tìm thấy đầu dây mối nhợ, trong lúc đó, các nhà khoa học tâm linh không cần sử dụng tiện nghi vật lý, vẫn có thể chứng minh được sự hiện hữu mọi hiện tượng

 “Khoa học thẩm thấu nhiều ngóc ngách cuộc sống, trong đó, cổ sinh vật học,cổ địa lý học, cổ khí hậu học, cổ thực vật, sinh vật,động vật học và sinh thái học…về mối tương quan, tương tác lẫn nhau, đưa đến sự tiến hóa trong vũ trụ và riêng tinh cầu chúng ta.

Theo quan kiến của các bậc minh triết chứng đắc:…trong tiến trình sinh hóa, loài Kim thạch tiến hóa thành loài Thảo mộc, thì các phần tử Kim thạch phải tan biến thành đất để nuôi loài Thảo mộc,sắc tướng Kim thạch có tan rã thì sắc tướng thào mộc mới phát sinh.Nói một cách khác, Kim thạch có hy sinh làm đất thì Thảo mộc mới có thể sinh sôi nảy nở. Cũng như thế, loài Thảo mộc có trở nên thức ăn nuôi dưỡng thì loài Thú cầm mới có thể phát triển được.Cỏ cây hoa lá có hy sinh thì sự tiến hóa của chúng xuyên qua các loài Thú cầm mới tiếp tục được. Sắc tướng này có chết thì sắc tướng khác mới nảy sinh. Sự tiến hóa từ loài Kim thạch qua loài Thảo mộc không gây đau khổ vì sự phát triển của chúng còn thô thiển nên chưa có cảm xúc.Tuy nhiên bắt đầu ở loài Cầm thú thì các thể tình cảm đã phát triển nên chúng biết cảm xúc đau đớn nhưng vì lý trí chưa phát triển mấy nên chúng sống bằng bản năng nhiều hơn.Khi tiến hóa chuyển kiếp thú thành người, các thể tình cảm phát triển rất mạnh, nhưng con người khác con thú ở điểm họ bắt đầu phát triển  thêm về lý trí nên có thể tự do lựa chọn. Loài Kim thạch, Thảo mộc, Cầm thú hoàn toàn sống theo các định luật thiên nhiên, nhưng con người có thể quyết định đời sống của mình.

Chu trình tiến hóa của loài người bắt đầu phát triển các thể tình cảm (xác thân) và sau đó phát triển các thể lý trí (tinh thần) và khi lý trí chủ trị được tình cảm thì họ sẽ bước vào một giai đoạn tiế hóa mới.” (Trở về xứ Tuyết của Nguyên Phong)

Những  minh chiếu trên đây cũng là giai đoạn triển khai hữu hình trong một chuổi dài diễn hóa tâm thức.Nó là Thật của cái thật vọng tưởng.Một câu nói nổi tiếng của một Thiền sư: “Có thì có tự mảy may, không thì cả thế gian này cũng không”. Trong giấc mộng, mọi hiện tượng đều là thật, và thấy rất thật đến khi tỉnh thức, những hiện tượng đó hoàn toàn diễn ra hết sức phi logic, cái biết phi logic này cũng rất thật. Cái Thật của mộng và cái thật lúc thức đều là thật trong giai đoạn ước định.

Cuộc sống trầm luân là đêm dài lắm mộng, tạo ra mắc xích nhân quả, tạo nên luân lưu trong lục đạo thấy như là Thật, có khổ đau thật, sung sướng thật, cỏi Trời hưởng lạc là thật, địa ngục khổ đau là thật…cũng như màn ảnh Holograms, dưới tuệ giác của bậc chứng đắc giác ngộ, chúng là hình nổi trong không gian đa chiều như là Thật; mà Thật như là… “nhạn quá trường không - ảnh trầm hàn thủy”

Khi  đã hiểu mọi vậtKhông Thật, đó là sự thật trong nghiệp thức quy ước của trầm luân. Nó không có một bản thể cố hữu quyết định làm nền tảng, thì làm gì có nguyên nhân khởi đầu để làm căn bản tìm ra manh mối cho thiên hà vạn vật là Thật?

Hành giả khai phá vũ trụ qua tâm thức không bị bế tắt như nhà khoa học đứng trên đầu sào trước hố thẳm cheo leo. Trang bị hành trang cho hành giảtinh thần Bát Nhã tâm kinh, trong khi khoa học gia phải trang bị mớ kiến thứclý thuyết hổn độn bên đống ngổn ngang máy móc vật lý. Dùng vật lý đi tìm khởi nguyên vật lý cũng chỉ là người trên lưng trâu đi tìm trâu. Hành giả buông bỏ, kể cả ý niệm về buông bỏ mới thấy được ngọn ngành của mọi hiện tượng. Sự thật được hiển bày.

                                                    ***

Từ đây được hiểu rằng,đối thoại, phán xét được trang bị kiến thức một chiều, chắc chắn không thể đúng đối với đối tượng bị phán xét, bị kết tội,có một trang bị kiến thức, hiểu biết ở một lãnh vực khác chiều.Đây là sự thật nếu muốn hóa giải một cách dung hợp trong tinh thần đoàn kết xây dựng. Với Kinh Sự Thật Đích Thực, hãy từ tốn, chẫm rãi thấm đượm từng phần, chiêm nghiệm từng phần, sẽ thấy vị tri ta đang đứng ở đâu, đang là thầy thiên hạ hay là đang xin học những gì thế gian có, để làm tư lương vượt thoát kiến giải đang bị nhị nguyên bó buộc.

Cái hiểu biết, cái học hàm học vị là chiếc bóng tàng cây lê thê quét trên mặt đất, chả giúp làm sạch bụi bẩn, và cũng chả giải quyết được ảo ảnh nghiệp thức của muôn loài, đây là sự thật mãi đến khi tìm được sự thật thoát khỏi vô minh.

Kinh Sự Thật Đích Thực:

 1. Mình còn mờ mịt mà cứ nói rằng kẻ kia chẳng bằng mình

2. Cứ nghĩ rằng người khác phải hành trì theo cái hành trì của mình

3. Còn ôm chặt si mêvọng tưởng mà cứ tưởng rằng mình đã đạt tới chỗ chí thiện.

4. Bậc thức giả thấy người thế gian đi theo con đường ấy thì nhất quyết không chịu đi theo. Ta chỉ nên hành trì theo chánh niệm và trong khi hành trì phải hết sức thận trọng

5. Cái bây giờ mình không nắm bắt, cái sau này cũng tuyệt đối không làm mình vướng bận. Buông bỏ mọi chủ thuyết, mọi ý tưởng, một mình đi trong tự do.

6. Không kẹt vào cái nhìn lưỡng nguyên, không kẹt vào ý niệm thọ mạng, ý niệm về đời này và đời sau, kẻ trí giả đi theo con đường trung đạo, quán chiếu các pháp để đạt tới thiền định chân chính.

7. Phải quán chiếu về những gì thấy, nghe và cảm nhận để đừng khởi lên tà niệm và bị kẹt vào tri giác sai lầm.

8. Nếu các pháp đều không thực sự hiện hữu, thì còn pháp hành trì nào nữa để cho ta kẹt vào?

Với tinh thần thiền sư thì:

Bóng trúc quét sân trần chẳng động,

Vầng trăng xuyên biển nước không xao.

(Hoè An Quốc Ngữ)

 

Minh Mẫn

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1330)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1353)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 1065)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1230)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1706)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1641)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1535)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 1115)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1500)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1454)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1370)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1427)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1758)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 2038)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1477)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 1131)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1471)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 2128)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1519)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1594)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1439)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2992)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1431)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1445)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1773)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1744)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1676)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1537)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2709)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1655)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1653)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1457)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1487)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1657)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1595)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1481)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1473)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1553)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2248)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1585)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1558)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1691)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1898)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1569)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1447)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1702)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1461)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1771)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2440)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1502)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 2012)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1736)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1795)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1659)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1987)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1716)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1483)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1752)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1613)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1589)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant