Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ý nghĩa của sự buông xả và hiểu sâu về sự bám víu

13 Tháng Sáu 201910:31(Xem: 5207)
Ý nghĩa của sự buông xả và hiểu sâu về sự bám víu

Ý nghĩa của sự buông xả và hiểu sâu về sự bám víu

Buông xả là một sự thực tập quan trọng trong cuộc sống hằng ngày, cũng như trên con đường giải thoát của chúng ta. Cuộc sống hằng ngày tạo cho chúng ta nhiều cơ hội để buông xả các kế hoạch, các sự mong muốn, các sở thích, và các ý kiến.

Buông xả dính mắc, bám víu trong tâm

Sự buông xả có thể đơn giản như là việc chúng ta hủy bỏ chương trình, bởi vì thời tiết trong ngày đã thay đổi. Hoặc sự buông xả có thể phức tạp như là chúng ta cần phải quyết định hy sinh một điều gì đó giữa các nhu cầu như gia đình, bạn bè, sự nghiệp, cộng đồng, hoặc là sự thực hành về tâm linh.

Sự giải thoát cũng còn liên quan đến việc từ bỏ tính kiêu-ngạo trong tâm, mà làm cho chúng ta bám víu vào các ý tưởng liên-hệ đến cái-tôi của chính mình.

Cuộc sống hằng ngày đặt chúng ta vào các tình huống mà sự buông xả là điều cần thiết, hoặc đôi khi là điều bắt buộc. Học làm cách nào để chúng ta buông xả một cách khéo léo, là một điều cần thiết để chúng ta có được một cuộc sống hạnh phúc.

So sánh với sự buông xả trong đời sống thế tục, thực tập sự buông xả trong Đạo Phật có nhiều đòi hỏi khắt khe hơn. Ngoài sự từ bỏ một số ý tưởng và sự ham muốn, chúng ta cần thực hành sự buông xả các nhu cầu bên trong mà thúc đẩy chúng ta bám víu vào các ý tưởng, và các sự ham muốn.

Trong Đạo Phật, sự giải thoát không phải chỉ là sự buông xả về các khái niệm lỗi thời và không chính xác; mà sự giải thoát cũng còn liên quan đến việc từ bỏ tính kiêu ngạo trong tâm, mà làm cho chúng ta bám víu vào các ý tưởng liên hệ đến cái tôi của chính mình. Sự giải thoát có nghĩa là sự buông bỏ các dính mắc, nằm sâu kín bên trong tâm của chúng ta.

Có những người không tin tưởng vào việc thực hành sự buông xả. Một trong những lý do chính đáng cho sự nghi ngờ nầy, là chúng ta dễ dàng buông bỏ đi những điều sai lầm, nếu chúng ta không có trí tuệ; thí dụ, như chúng ta nhầm lẫn buông bỏ đi sự theo đuổi lối sống lành mạnh, như là việc tập thể dục, hoặc là sự ăn uống lành mạnh, thay vì chúng ta cần phải buông bỏ đi sự-bám-víu vào các sự theo đuổi nầy.

Một lý do khác cho sự nghi ngờ, là sự buông bỏ (hoặc sự từ bỏ) có thể bị hiểu lầm như là sự bị cách chức, sự yếu đuối, hoặc là cái tôi của chính mình bị hạ thấp, bởi vì sự hiểu lầmchúng ta phải từ bỏ các quan điểm và mong muốn của mình, và thay vào đó bằng các quan điểm và mong muốn của người khác. 

Có hai cách để buông xả, buông bỏ cái-gì-đó, hoặc sự-bám-víu mà chúng ta đang có về cái-gì-đó. Trong một số trường hợp, buông bỏ cái-gì-đó là điều thích hợp. Trong những trường hợp khác, điều quan trọng là buông bỏ sự-bám-víu. Khi có người nào nghiện rượu, điều cần thiết là sự từ bỏ rượu.

Tuy nhiên, khi một người nào đó đang sống chìm đắm trong quá khứ, thì quá khứ không phải là điều từ bỏ, mà sự-bám-víu (về quá khứ) là điều cần từ bỏ. Nếu người nầy từ bỏ quá khứ, họ sẽ mất đi sự hiểu biết. Khi họ không còn sự-bám-víu (về quá khứ), họ sẽ dễ dàng học được các sai lầm mà họ đã có trong quá khứ.

Lý do tại sao có sự bám víu?

Đôi khi, chúng ta cần phải hiểu được lý-do tại sao chúng ta lại có sự-bám-víu (vào cái-gì-đó), trước khi chúng ta có được sự buông bỏ. Chúng ta cần phải điều tra bản chất cái gì đó mà chúng ta đang bám-víu. Thí dụ, như nhiều người sẽ cảm thấy dễ dàng để buông bỏ sự kiêu ngạo, khi họ nhìn thấy các phản ứng (không tốt đẹp) của những người khác đối với họ. Khi chúng ta nhìn thấy rõ ràng những gì tiền bạc có thể, và không thể mang lại cho chúng ta, chúng ta sẽ dễ dàng để buông bỏ ý niệm cho rằng tiền bạc sẽ mang đến cho chúng ta một cuộc sống có ý nghĩa.

 

Sự-bám-víu luôn luôn gây ra sự đau đớn. Đây chính là nguồn gốc của sự khổ đau

Bài liên quan

Muốn hạnh phúc bạn hãy buông bỏ như lời Đức Phật dạy

Đôi khi, điều quan trọng để hiểu là lý do của sự-bám-víu, chứ không phải là cái mà chúng ta đang bám-víu. Sự-bám-víu luôn luôn gây ra sự đau đớn. Đây chính là nguồn gốc của sự khổ đau. Sự-bám-víu làm cho chúng ta chỉ nhìn thấy được một góc cạnh của những gì đang xảy ra. Khi sự-bám-víu trở nên mạnh mẽ, điều nầy có thể làm cho chúng ta không còn nhận biết được chính mình. Sự-bám-víu cản trở khả năng dễ thích nghi và sự sáng tạo của chúng ta, và điều nầy lập tức làm cho chúng ta có các cảm xúc phiền não.

Qua việc nghiên cứu về sự-bám-víu, và cái mà chúng ta đang bám-víu, chúng ta sẽ biết được điều gì chúng ta cần phải buông bỏ. Nếu cái mà chúng ta đang bám-víu có hại, chúng ta buông bỏ cái nầy. Nếu cái mà chúng ta đang bám-víu có lợi, chúng ta buông bỏ sự-bám-víu, do đó chúng ta sẽ còn giữ lại phần ích lợi. Giúp đỡ một người hàng xóm, săn sóc sức khỏe và phúc-lợi của chính mình, hoặc là thưởng thức vẻ đẹp của thiên nhiên là các điều mà chúng ta có thể thực hiện, cùng với sự-bám-víu, hoặc là không có sự-bám-víu. Chúng ta có thể thực hiện các việc trên tốt hơn rất nhiều, nếu chúng ta không có sự-bám-víu.

 

Thực hành sự buông xả cần có cả hai "mặt" cùng làm việc chung với nhau, giống như hai mặt của một bàn tay.

Bài liên quan

Ai cũng mong được buông xả, vậy nên hiểu buông xả sao cho đúng?

Trong Đạo Phật, việc thực hành sự buông xả cần có cả hai "mặt" cùng làm việc chung với nhau, giống như hai mặt của một bàn tay. Mặt thứ nhất, mà được nhiều người biết đến, là sự buông bỏ một cái gì đó. Mặt thứ nhì là sự buông bỏ rồi được một kết quả tốt hơn. Khi cả hai mặt cùng làm việc, giống như là khi chúng ta nhảy ra khỏi (buông bỏ) tấm ván nhảy, rồi để thân thể rơi xuống nước, thư giãn trong hồ bơi, hoặc là chúng ta buông bỏ sự thiếu kiên nhẫn, và rồi được một kết quả là sự thư giãn, và sự thoải mái.

Trong khi sự buông xả mang lại cho chúng ta rất nhiều lợi lạc, thì việc buông bỏ rồi được một kết quả tốt hơn mang lại một giá trị quan trọng. Nhìn qua góc cạnh nầy, buông xả thì có nghĩa là được thêm, chứ không phải là mất đi. Khi chúng ta buông bỏ sự sợ hãi, nghĩa là chúng ta sẽ có được cảm giác an toàn, hoặc là một cảm giác thư giãn. Từ bỏ nhu cầu cho mình là đúng, hoặc là từ bỏ ý kiến của mình là đúng,

cho phép người nầy có cảm giác bình an. Buông xả các ý nghĩ có thể giúp cho tâm chúng ta được an bình hơn. Bằng cách buông bỏ rồi được một kết quả tốt hơn, làm cho chúng ta dễ dàng buông bỏ những gì có hại cho chúng ta. Đôi khi, chúng ta không muốn buông bỏ bởi vì chúng ta không nhìn ra được sự thay thế là điều tốt đẹp hơn, so với những gì chúng ta đang nắm giữ. Khi chúng ta nhìn thấy lợi ích rõ ràng trong sự buông bỏ, chúng ta sẽ dễ dàng để thực hiện điều nầy.

 

Từ ngữ "xuất gia" trong Phật Giáo có nghĩa là sự từ-bỏ một nơi chốn bụi bặm và chật hẹp, để đi-đến một nơi chốn sạch sẽ, với một không gian rộng mở. (Ảnh: Giác ngộ)

Qua truyền thống hiểu biết về sự xuất gia, chúng ta có thể nhìn thấy rằng Đạo Phật nhấn mạnh về những gì chúng tathể đạt được qua sự buông xả. Từ ngữ "xuất gia" trong Anh Ngữ có nghĩa là sự từ bỏ, trong khi từ ngữ "xuất gia" trong Phật Giáo có nghĩa là sự từ bỏ một nơi chốn bụi bặm và chật hẹp, để đi đến một nơi chốn sạch sẽ, với một không gian rộng mở. Hãy tưởng tượng, rằng trong suốt một mùa đông tuyết phủ, bạn đang ở trong một căn phòng nhỏ, chật hẹp cùng với các người thân. Mặc dù bạn thương yêu các người thân nầy, tuy nhiên, khi bạn mở cửa đi ra ngoài, bạn trông thấy mùa xuân, rồi tâm bạn cảm thấy vô cùng tuyệt vời.

Một trong những điều tốt đẹp về sự buông xả rồi được một kết quả tốt hơn, không phải là chúng ta có lòng mong muốn một cái gì đó, hoặc là chúng ta tạo ra một cái gì đó, mà điều tốt đẹp chỉ là nhờ có sự cho phép hoặc là nhờ có sự thư giãn. Một khi chúng ta đã biết bơi rồi, chúng ta cảm thấy thoải mái khi thả nổi, bằng cách chúng ta cho phép nước đẩy chúng ta lên. Một khi chúng talòng từ bi, (có những lúc) chúng ta không những chỉ buông bỏ sự ác ý, mà còn cho phép chúng ta chia xẻ một sự đồng cảm với người khác. Buông bỏ sự sợ hãi, rồi sau đó cho phép chúng ta được nghỉ ngơi trong một cảm giác bình an.

 
Một kết quả tuyệt vời của sự buông xả, là để chúng ta hiểu biết rằng khi sống trong từng giây phút là tự đầy đủ rồi, và chỉ cần như thế thôi. Điều nầy cho phép chúng ta có mặt ở đây, ngay bây giờ, trong sự tự do và trong sự hiểu biết rõ ràng, bởi vì sống được trong từng giây phút nầy là điều có ý nghĩa sâu sắc nhất.

Chúng ta có thể buông bỏ sự vội vã lao mình vào tương lai, cũng như buông bỏ các cách tưởng tượng khác nhau của chúng ta như là "Tôi chưa được tài giỏi", hoặc là "Bây giờ chưa đúng thời điểm", để chúng ta có thể khám phá ra được rằng niềm hạnh phúc, và sự bình an không bao giờ phụ thuộc vào những gì chúng ta tin tưởng, hoặc là mong muốn.

Trong Đạo Phật, kết quả của sự thực hành là (buông xả) để đi vào các trạng thái tốt đẹp, có ý nghĩa, và tinh khiết của tâm rộng mở. Đặc biệt, là chúng ta có thể hiểu biết được sự bình an thấm đẫm trong tâm, qua sự buông xả, hoặc qua sự buông xả rồi được một kết quả tốt hơn. Khi chúng ta buông xả cái tôi mà đang sống trong sự bình an, thì chúng ta sẽ có sự bình an hoàn toàn. Khi không còn cái-tôi, thì điều còn lại chỉ là tâm bình an mà thôi.

Chuyển Ngữ: Nguyễn Văn Tiến 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1182)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1651)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1582)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1498)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 1086)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1476)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1415)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1335)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1388)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1715)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 1980)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1438)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 1096)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1429)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 2032)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1477)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1564)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1393)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2916)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1379)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1411)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1733)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1684)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1636)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1480)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2645)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1609)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1615)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1408)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1428)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1617)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1569)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1446)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1436)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1523)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2206)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1554)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1514)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1632)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1848)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1540)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1419)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1676)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1425)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1718)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2394)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1477)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 1965)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1684)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1764)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1623)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1958)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1688)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1444)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1733)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1585)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1554)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1338)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1256)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1302)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant