Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Từ Ngũ Cú Thuyết (五句說) Trong Kinh Trung A- Hàm Đến Năm Thể Tài Trong Kinh Điển Bà-la-môn.

06 Tháng Mười 201905:11(Xem: 4651)
Từ Ngũ Cú Thuyết (五句說) Trong Kinh Trung A- Hàm Đến Năm Thể Tài Trong Kinh Điển Bà-la-môn.

TỪ NGŨ CÚ THUYẾT (五句說) TRONG KINH TRUNG A- HÀM
ĐẾN NĂM THỂ TÀI TRONG KINH ĐIỂN BÀ-LA-MÔN.

Chúc Phú

Từ Ngũ Cú Thuyết
 

Kinh Trung A-Hàm được dịch sang Hán đầu tiên vào niên hiệu Kiến Nguyên năm thứ mười chín (383) do một nhóm các vị tăng nhân người Ấn Độ nói chung thực hiện. Theo Cao Tăng truyện quyển thứ nhất, bản kinh Trung A-Hàm đầu tiên do ngài Tăng-già-bạt-trừng (僧伽跋澄) tuyên đọc Phạn văn, ngài Đàm-ma-nan-đề (曇摩難提) viết ra chữ Phạn[1].

 Vào năm sau (384), Thái thú Vũ Oai Triệu Chánh (武威太守趙正) lại cầu thỉnh ngài Đàm-ma-nan-đề dịch Trung A-Hàm. Bản dịch Trung A-Hàm này phần lớn đã thất lạc và chỉ còn vài phiến đoạn trong Đại tạng kinh chữ Hán. Do vì bản dịch đầu tiên này còn nhiều điều cần bổ chính, nên hơn mười năm sau, vào niên hiệu Long An thứ hai (398) [2], bản kinh Trung A-Hàm lại được trùng dịch. Lúc này, ngài Tăng-già-đề-bà (僧伽提婆) tự mình tuyên đọc Phạn văn rồi dịch sang chữ Hán[3]. Đây là bản 61 quyển hiện được thu lục vào Đại tạng kinh Đại chánh tân tu mang số hiệu T0026, là để bản của bản dịch Tiếng Việt kinh Trung A-Hàm.

Dẫn xuất như vậy để thấy rằng, để bản Trung A-Hàm được kế thừa từ những nguồn khác nhau, chúng vừa được giữ gìn theo trí nhớ, vừa được ghi lại từ trí nhớ và tổng hợp cả hai yếu tố nêu trên. Và do vậy, trong toàn bộ nội dung kinh Trung A-Hàm, đã xuất hiện nhiều cú ngữ đặc thù, cô động đến mức khó có thể lý giải trọn vẹn. Ngũ cú thuyết (五句說) là một trường hợp như vậy.
1.    Ngũ cú thuyết trong kinh Trung A-Hàm.

Thành cú Ngũ cú thuyết (五句說) có nguyên tác như sau:

Nhân, duyên, chánh, văn và hí, gọi là Ngũ cú thuyết. (因, 緣, 正, 文,戲).

Trong kinh Trung A-Hàm, Ngũ cú thuyết xuất hiện trong một số bản kinh sau:

-        Kinh Tỳ-bà-lăng-kỳ (鞞婆陵耆), số 63.
-        Kinh Phạm-chí A-nhiếp-hòa (梵志阿攝惒), số 151.
-        Kinh Đầu-na (頭那) số 158.
-        Kinh A-lan-na (阿蘭那), số 160.
-        Kinh Phạm-ma (梵摩), số 161.

Tuy chỉ xuất hiện ở năm bản kinh trong toàn bộ 222 kinh Trung A-Hàm, thế nhưng nếu như chỉ căn cứ vào nghĩa của từng chữ thì không thể lý giải đầy đủ nghĩa của Ngũ cú thuyết này. Do vậy, nhằm góp phần giải mã tồn nghi nêu trên, chúng tôi sẽ lần lượt tham chiếu Ngũ cú thuyết hoặc tên gọi tương đương trong hai nguồn kinh điển chủ yếu, từ Hán tạng cho đến Nikāya.
2.    Ngũ cú thuyết trong kinh văn Hán tạng.

Có hai nguồn thư tịch quan trong trong kinh văn Hán tạng đề cập đến Ngũ cú thuyết nhưng được định danh với tên gọi khác nhau.

Thứ nhất, theo kinh Tạp A-Hàm, số 886, gọi là Ngũ chủng ký (五種記). Kinh ghi:

Bấy giờ, Thế Tôn bảo Bà-la-môn:

-Thế nào gọi là ba minh của Bà-la-môn?

Bà-la-môn bạch Phật rằng:

-Thưa Cù-đàm, cha mẹ Bà-la-môn đều thuần chủng, không có các tì vết, cha mẹ bảy đời truyền nối mà không bị người chê bai, cha truyền con nối, luôn làm sư trưởng, biện tài đầy đủ; đọc tụng các kinh điển, định danh tự vạn vật, tính sai khác của vạn vật; phép tắc chữ nghĩalịch sử xưa nay, năm pháp thức này đều phải thông đạt và dung sắc đoan chánh. Thưa Cù-đàm, đó gọi là ba minh của Bà-la-môn.

Nguyên tác:

爾時,世尊告婆羅門言:云何名為婆羅門三明?

婆羅門白佛言:‘瞿曇!婆羅門父母具相,無諸瑕穢,父母七世相承,無諸譏論,世世相承,常為師長,辯才具足;誦諸經典、物類名字、萬物差品、字類分合、歷世本末,此,悉皆通達,容色端正。是名,瞿曇!婆羅門三明.[4]

Như vậy, Ngũ chủng ký (五種記) theo kinh Tạp A-Hàm là một trong những tiêu chuẩn quan trọng để hợp thành ba minh của Bà-la-môn. Ở đây, năm pháp thức đó là: đọc tụng các kinh điển, định danh tự vạn vật, tính sai khác của vạn vật; phép tắc của chữ nghĩalịch sử xưa nay.

Thứ hai, theo kinh Phật thuyết Bạch y kim tràng nhị Bà-la-môn duyên khởi (白衣金幢二婆羅門緣起經) gọi là Ngũ chủng ký luận (五種記論). Kinh ghi:

Lúc ấy Thế Tôn bảo hai vị Bà-la-môn Bạch yKim tràng:

-Các ông nên biết! Những Bà-la-môn tự cho rằng mình thông đạt ba minh nên xưng là chủng tộc tối thượng, dòng họ thanh tịnh, giữ lửa thờ trời, được sanh trong dòng tộc ưu thắng, cha mẹ đều thanh tịnh, dòng dõi thuần lương cho đến bảy đời, cha mẹ thanh cao, tôn quý; chủng tộc thù thắng, không tạo tội lỗi, không bị phỉ báng. Được như vậy đều nhờ chủng tộc thanh tịnh. Hơn nữa, phải thông suốt tường tận năm loại ký luận, bao gồm:

1. Các lý luận căn bản[5] và pháp rốt ráo của ba bộ Vệ-đà[6].
2. Định danh các vật
3. Cai-tra-bà-na (該吒婆那)
4. Văn tự, câu cú và chương tiết.
5. Ngôn ngữ kỳ diệu của hý tiếu.

Nguyên tác

爾時,世尊告白衣金幢二婆羅門言: ‘汝等當知,諸婆羅門,自謂了達三明,名稱上族,種姓清淨,從事火天勝族中生,父淨母淨,善生善種,乃至七世,父母尊高,種族殊勝,無罪無謗,是等皆因種姓淨故.又謂洞達明了五種記論,一本母法等究竟三明,二諸物定名,三該吒婆那,四文字章句,[7].

Trong Ngũ chủng ký luận (五種記論) của bản kinh này có cụm từ Cai-tra-bà-na (該吒婆那) được phiên âm từ chữ Phạn nên không hiểu đó là gì. Điều này, sau khi tham chiếu các nguồn thư tịch ở Nikāya, chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này.
3.    Ngũ cú thuyết trong kinh tạng Nikāya.

Trong kinh tạng Nikāya, Ngũ cú thuyết được gọi là Năm thể tài (pañcamānaṃ). Cú ngữ này xuất hiện rải rác trong cả ba bộ Nikāya. Để tiện theo dõi, chúng tôi lần lượt dẫn lại kinh văn, các đoạn trích dịch sau đều do HT. Thích Minh Châu dịch.
1.     Kinh Trường Bộ, kinh Chủng Đức (D.4)

Lại Tôn giả Sonadanda là nhà phúng tụng, nhà trì chú, thông hiểu ba tập Vedà với danh nghĩa, lễ nghi, ngữ nguyên, chú giảilịch sử truyền thống là thứ năm, thông hiểu ngữ pháp và văn phạm, biện tài về Thuận thế (tự nhiên học) và tướng của vị đại nhân.
2.     Kinh Trung Bộ, kinh Brahmāyu (M.91)

 Như vầy tôi nghe.

Một thời Thế Tôn du hành ở Videha, cùng với đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị.

Lúc bấy giờ, Bà-la-môn Brahmayu trú tại Mithila (Di-tát-la) già yếu, niên cao, lạp lớn, đã đến tuổi trưởng thượng, đã gần mãn cuộc đời, tuổi đã đến một trăm hai mươi, một vị đọc tụng Thánh điển, chấp trì chú thuật, tinh thông ba tập Veda, với tự vựng, lễ nghi, ngữ nguyên và thứ năm là các cổ truyện, thông hiểu từ ngữvăn phạm, thâm hiểu Thuận thế luận và Đại nhân tướng.
3.     Kinh Tăng Chi Bộ.

Ở đây, thưa Tôn giả Gotama, vị Bà-la-môn thiện sanh cả từ mẫu và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời tổ phụ, không bị một vết nhơ nào, không bị một dèm pha nào về vấn đề huyết thống thọ sanh, nhà phúng tụng, nhà trì chú, thông hiểu ba tập Veda với danh nghĩa, lễ nghi, ngữ nguyên, chú giải và các cổ truyện là thứ năm, thông hiểu ngữ pháp và văn phạm, biện tài về thuận thế (tự nhiên học) và tướng của các vị đại nhân. Như vậy, thưa Tôn giả Gotama, các vị Bà-la-môn diễn tả ba minh các vị Bà-la-môn. (A.3.58).

Thưa Tôn giả Gotama, nếu có ai nói một cách chân chánh, vị ấy phải nói rằng: "Vị Bà-la-môn thiện sanh cả từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời tổ phụ, không một vết nhơ nào, một dèm pha nào về vấn đề huyết thống thọ sanh; là nhà phúng tụng, nhà trì chú, thông hiểu ba tập Vedà với danh nghĩa, lễ nghi, ngữ nguyên, chú giảilịch sử truyền thống là thứ năm, thông hiểu ngữ pháp và văn phạm, biện tài về thuận thế (tự nhiên học) và tướng của vị Đại nhân. (A.5. 192)
4.     Nguyên tác của Năm thể tài (pañcamānaṃ).

Như vậy, trong ba bộ Nikāya vừa dẫn ở trên, Năm thể tài (pañcamānaṃ) trong bản dịch Việt gần như giống nhau tuyệt đối, chỉ khác biệt ở một vài từ đồng nghĩa. Cơ sở của sự giống nhau đó dựa trên cú ngữ Pāli:

sanighaṇḍukeṭubhānaṃ sākkharappabhedānaṃ itihāsapañcamānaṃ

Ở đây:

sanighaṇḍu: từ vựng, ngữ vựng.
keṭubhānaṃ: nghi quỹ, nghi thức.
sākkhara: âm vị học, ngữ nguyên.
pabhedāna: phân tích ngữ âm, chú giải.
itihāsa: cổ truyện, sử truyện.

Năm thể tài này được áp dụng nhuần nhuyễn trên ba bộ Vệ-đà (tiṇṇaṃ vedānaṃ pāragū). Nói cách khác, muốn tiếp cận nghiên cứu, tụng đọc và giảng thuyết ba bộ Vệ-đà theo quan điểm của Bà-la-môn là phải am tường Năm thể tài (pañcamānaṃ) cơ bản này.

Đây là cơ sở tham chiếu quan trọng để lý giải một vài trường hợp chưa rõ nghĩa trong một số bản kinh chữ Hán, mà cụ thể ở đây là Ngũ cú thuyết (五句說) trong kinh Trung A-Hàm.
5.     Đối chiếu Năm thể tài (pañcamānaṃ) trong Nikāya và các cú ngữ tương đương trong kinh văn Hán tạng.
     1.   Kinh Tạp A-Hàm

Theo kinh Tạp A-Hàm, Ngũ chủng ký (五種記)  bao gồm:

Đọc tụng các kinh điển, định danh tự vạn vật, phẩm tính sai khác của vạn vật; phép tắc chữ nghĩalịch sử xưa nay.

(誦諸經典、物類名字、萬物差品、字類分合、歷世本末,此).

So sánh:
1. Đọc tụng các kinh điển, (誦諸經典), tương đồng với từ vựng, ngữ vựng (sanighaṇḍu), cần phải thông thuộc trong ba bộ Vệ-đà (tiṇṇaṃ vedānaṃ pāragū).
2. Định danh tự vạn vật (物類名字), tương đồng với nghi quỹ, nghi thức (keṭubhānaṃ).
3. Phẩm tính sai khác của vạn vật (萬物差品), tương đồng với âm vị học, ngữ nguyên (sākkhara).
4. Phép tắc chữ nghĩa (字類分合) tương đồng với phân tích ngữ âm, chú giải (pabhedāna).
5. Lịch sử xưa nay (歷世本末) tương đồng với cổ truyện, sử truyện (itihāsa).
     2.   Kinh Phật thuyết Bạch y kim tràng nhị Bà-la-môn duyên khởi (白衣金幢二婆羅門緣起經).

Trong bản kinh này, gọi là Ngũ chủng lý luận (五種記論), bao gồm:

1. Các lý luận căn bản và pháp rốt ráo của ba bộ Vệ-đà.
2. Định danh các vật
3. Cai-tra-bà-na (該吒婆那)
4. Văn tự, câu cú và chương tiết.
5. Ngôn ngữ kỳ diệu của hý tiếu.

So sánh
1. Các lý luận căn bản và pháp rốt ráo của ba bộ Vệ-đà (一本母法等究竟三明) tương đồng với từ vựng, ngữ vựng (sanighaṇḍu), cần phải thông thuộc trong ba bộ Vệ-đà (tiṇṇaṃ vedānaṃ pāragū)

2. Định danh các vật (諸物定名) tương đồng với âm vị học, ngữ nguyên (sākkhara).
3. Cai-tra-bà-na (該吒婆那). Cụm từ này là được phiên âm từ Phạn ngữ. Theo chúng tôi, đó là sự phiên âm từ chữ keṭubhānaṃ, tức là nghi quỹ, nghi thức.
4. Văn tự, câu cú và chương tiết (文字章句) tương  đương với phân tích ngữ âm, chú giải (pabhedāna).
5. Ngôn ngữ kỳ diệu của hý tiếu (). Cần lưu ý rằng, lịch sử của Ấn Độ cổ đại nói chung được thể hiện dưới dạng trường ca, tán ca. Trường ca là một thể loại văn chương gắn liền với hý khúc. Do vậy, yếu tố thứ năm này tương đồng với cổ truyện, sử truyện (itihāsa).

     3. Kinh Trung A Hàm

Trong kinh Trung A-Hàm, thành cú Ngũ cú thuyết (五句說), gồm:

Nhân, duyên, chánh, văn và hí. (因, 緣, 正, 文,戲).

So sánh
1. Nhân (因): là căn nguyên, là những lý luận căn bản của kinh điển Vệ-đà. Tương tự như cụm từ bổn mẫu pháp (本母法)của kinh Phật thuyết Bạch y kim tràng nhị Bà-la-môn duyên khởi vừa dẫn ở trên. Như vậy, Nhân (因) tương đương với từ vựng, ngữ vựng (sanighaṇḍu), cần phải thông thuộc trong ba bộ Vệ-đà (tiṇṇaṃ vedānaṃ pāragū).

2. Duyên (緣): theo từ nguyên, là yếu tố phụ nhưng có tác dụng bổ trợ hoặc làm cho đẹp thêm, khác biệt thêm. Đơn cử như câu: áo thuần lụa trắng, quần không viền lai ( 常衣大練,裙不加緣)[8]. Cụ thể hơn, trong Đại đường Tây-vức-ký, ngài Huyền Tráng ghi: Về quy cách ba y, bộ phái vâng giữ không đồng, hoặc đường biên rộng, hẹp; hoặc đường viền, nhỏ, to. (三衣裁製,部埶不同,或緣有寬狹,或葉有小大)[9]. Như vậy, duyên (緣) ở đây mang nghĩa phân tích, chú giải (pabhedāna).
3. Chánh (正): Ngoài những nghĩa thông thường, chữ chánh (正) ở đây còn mang nghĩa là tiêu chuẩn, chuẩn tắc (標准,准則). Ở nghĩa này sẽ tương đống với chữ keṭubhānaṃ, tức là nghi quỹ, nghi thức.
4. Văn (文): có nghĩa câu, chữ văn chương (文辭,詞句). Ở nghĩa này, Văn (文) hoàn toàn tương đồng với sākkhara, tức ngữ nguyên.
5. Hí (戲): tức hí kịch (戲劇), nghĩa là diễn lại sự tích cũ, gọi là vở kịch, vở tuồng. Ở nghĩa này, Hí (戲) tương đồng với chữ itihāsa, nghĩa là cổ truyện, s truyện.
6. Nhận địnhđề xuất.
Như vậy, Ngũ cú thuyết (五句說) trong kinh Trung A-Hàm là năm thể tài (pañcamānaṃ) mà một vị Bà-la-môn cần phải tinh thông mới được gọi là Bà-la-môn thông đạt tam minh. Do ảnh hưởng từ nhiều yếu tố, thế nên khi dịch sang Hán ngữ thì năm thể tài này được diễn đạt khác nhau, tùy theo từng bộ kinh, tùy theo kiến thức, quan điểm của từng nhà phiên dịch.

Ở đây, từ những đối chiếu và phân tích ở trên, thành cú Ngũ cú thuyết (五句說) trong kinh Trung A-Hàm bao gồm: nhân, duyên, chánh, văn và hí. (因,緣,正,文,戲), chúng tôi kính đề nghị chuyển dịch là:

Căn nguyên, chú giải, nghi quỹ, văn chươngcổ sử.

 



[1] 大正新脩大藏經第 50 冊 No. 2059《高僧傳》, 卷第一. Nguyên văn:跋[14]證口誦經本。T50n2059_p0328b08║外國沙門曇摩難提筆受為梵文

[2] 大正新脩大藏經第 55 冊 No. 2145《出三藏記集》, 卷第二.

[3] 大正新脩大藏經第 50 冊 No. 2059《高僧傳》, 卷第一. Nguyên văn: 提婆乃於般若臺。T50n2059_p0329a12║手執梵文口宣晉語

[4] 大正新脩大藏經第 2 冊 No. 99. 雜阿含經, 卷第三十一.[1]

[5] 大正新脩大藏經第 54 冊 No. 2131 翻譯名義集, : 梵語摩怛理迦。此云. 能生妙T54n2131_p1110c23║慧. 妙慧因論而生. 故展轉翻為論也. Tham chiếu, Hiển dương Thánh giáo, quyển 12: hết thảy sách vở, toán thuật, văn thơ và luận lý đều xuất phát từ bổn mẫu (世間一切書算詩論皆有T31n1602_p0538c24║).

[6] Nguyên tác tam minh (三明). Một cách gọi khác chỉ cho ba bộ Vệ-đà.

[7] 大正新脩大藏經第 1 冊 No. 10, 白衣金幢二婆羅門緣起經, 卷上.

[8] 後漢書,皇后紀上, 明德馬皇后.

[9] 大正新脩大藏經第 51 冊 No. 2087 大唐西域記, 卷第二

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1183)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1651)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1585)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1498)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 1086)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1477)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1415)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1338)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1393)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1717)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 1982)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1438)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 1096)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1430)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 2036)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1480)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1565)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1394)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2919)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1379)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1414)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1734)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1685)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1637)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1480)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2646)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1609)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1616)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1409)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1429)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1618)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1572)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1450)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1438)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1525)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2207)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1556)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1516)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1633)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1848)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1541)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1421)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1677)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1426)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1720)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2396)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1478)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 1968)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1685)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1765)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1624)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1959)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1690)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1445)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1736)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1587)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1557)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
(Xem: 1341)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1256)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1303)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant