Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Từ Ngũ Cú Thuyết (五句說) Trong Kinh Trung A- Hàm Đến Năm Thể Tài Trong Kinh Điển Bà-la-môn.

06 Tháng Mười 201905:11(Xem: 4674)
Từ Ngũ Cú Thuyết (五句說) Trong Kinh Trung A- Hàm Đến Năm Thể Tài Trong Kinh Điển Bà-la-môn.

TỪ NGŨ CÚ THUYẾT (五句說) TRONG KINH TRUNG A- HÀM
ĐẾN NĂM THỂ TÀI TRONG KINH ĐIỂN BÀ-LA-MÔN.

Chúc Phú

Từ Ngũ Cú Thuyết
 

Kinh Trung A-Hàm được dịch sang Hán đầu tiên vào niên hiệu Kiến Nguyên năm thứ mười chín (383) do một nhóm các vị tăng nhân người Ấn Độ nói chung thực hiện. Theo Cao Tăng truyện quyển thứ nhất, bản kinh Trung A-Hàm đầu tiên do ngài Tăng-già-bạt-trừng (僧伽跋澄) tuyên đọc Phạn văn, ngài Đàm-ma-nan-đề (曇摩難提) viết ra chữ Phạn[1].

 Vào năm sau (384), Thái thú Vũ Oai Triệu Chánh (武威太守趙正) lại cầu thỉnh ngài Đàm-ma-nan-đề dịch Trung A-Hàm. Bản dịch Trung A-Hàm này phần lớn đã thất lạc và chỉ còn vài phiến đoạn trong Đại tạng kinh chữ Hán. Do vì bản dịch đầu tiên này còn nhiều điều cần bổ chính, nên hơn mười năm sau, vào niên hiệu Long An thứ hai (398) [2], bản kinh Trung A-Hàm lại được trùng dịch. Lúc này, ngài Tăng-già-đề-bà (僧伽提婆) tự mình tuyên đọc Phạn văn rồi dịch sang chữ Hán[3]. Đây là bản 61 quyển hiện được thu lục vào Đại tạng kinh Đại chánh tân tu mang số hiệu T0026, là để bản của bản dịch Tiếng Việt kinh Trung A-Hàm.

Dẫn xuất như vậy để thấy rằng, để bản Trung A-Hàm được kế thừa từ những nguồn khác nhau, chúng vừa được giữ gìn theo trí nhớ, vừa được ghi lại từ trí nhớ và tổng hợp cả hai yếu tố nêu trên. Và do vậy, trong toàn bộ nội dung kinh Trung A-Hàm, đã xuất hiện nhiều cú ngữ đặc thù, cô động đến mức khó có thể lý giải trọn vẹn. Ngũ cú thuyết (五句說) là một trường hợp như vậy.
1.    Ngũ cú thuyết trong kinh Trung A-Hàm.

Thành cú Ngũ cú thuyết (五句說) có nguyên tác như sau:

Nhân, duyên, chánh, văn và hí, gọi là Ngũ cú thuyết. (因, 緣, 正, 文,戲).

Trong kinh Trung A-Hàm, Ngũ cú thuyết xuất hiện trong một số bản kinh sau:

-        Kinh Tỳ-bà-lăng-kỳ (鞞婆陵耆), số 63.
-        Kinh Phạm-chí A-nhiếp-hòa (梵志阿攝惒), số 151.
-        Kinh Đầu-na (頭那) số 158.
-        Kinh A-lan-na (阿蘭那), số 160.
-        Kinh Phạm-ma (梵摩), số 161.

Tuy chỉ xuất hiện ở năm bản kinh trong toàn bộ 222 kinh Trung A-Hàm, thế nhưng nếu như chỉ căn cứ vào nghĩa của từng chữ thì không thể lý giải đầy đủ nghĩa của Ngũ cú thuyết này. Do vậy, nhằm góp phần giải mã tồn nghi nêu trên, chúng tôi sẽ lần lượt tham chiếu Ngũ cú thuyết hoặc tên gọi tương đương trong hai nguồn kinh điển chủ yếu, từ Hán tạng cho đến Nikāya.
2.    Ngũ cú thuyết trong kinh văn Hán tạng.

Có hai nguồn thư tịch quan trong trong kinh văn Hán tạng đề cập đến Ngũ cú thuyết nhưng được định danh với tên gọi khác nhau.

Thứ nhất, theo kinh Tạp A-Hàm, số 886, gọi là Ngũ chủng ký (五種記). Kinh ghi:

Bấy giờ, Thế Tôn bảo Bà-la-môn:

-Thế nào gọi là ba minh của Bà-la-môn?

Bà-la-môn bạch Phật rằng:

-Thưa Cù-đàm, cha mẹ Bà-la-môn đều thuần chủng, không có các tì vết, cha mẹ bảy đời truyền nối mà không bị người chê bai, cha truyền con nối, luôn làm sư trưởng, biện tài đầy đủ; đọc tụng các kinh điển, định danh tự vạn vật, tính sai khác của vạn vật; phép tắc chữ nghĩalịch sử xưa nay, năm pháp thức này đều phải thông đạt và dung sắc đoan chánh. Thưa Cù-đàm, đó gọi là ba minh của Bà-la-môn.

Nguyên tác:

爾時,世尊告婆羅門言:云何名為婆羅門三明?

婆羅門白佛言:‘瞿曇!婆羅門父母具相,無諸瑕穢,父母七世相承,無諸譏論,世世相承,常為師長,辯才具足;誦諸經典、物類名字、萬物差品、字類分合、歷世本末,此,悉皆通達,容色端正。是名,瞿曇!婆羅門三明.[4]

Như vậy, Ngũ chủng ký (五種記) theo kinh Tạp A-Hàm là một trong những tiêu chuẩn quan trọng để hợp thành ba minh của Bà-la-môn. Ở đây, năm pháp thức đó là: đọc tụng các kinh điển, định danh tự vạn vật, tính sai khác của vạn vật; phép tắc của chữ nghĩalịch sử xưa nay.

Thứ hai, theo kinh Phật thuyết Bạch y kim tràng nhị Bà-la-môn duyên khởi (白衣金幢二婆羅門緣起經) gọi là Ngũ chủng ký luận (五種記論). Kinh ghi:

Lúc ấy Thế Tôn bảo hai vị Bà-la-môn Bạch yKim tràng:

-Các ông nên biết! Những Bà-la-môn tự cho rằng mình thông đạt ba minh nên xưng là chủng tộc tối thượng, dòng họ thanh tịnh, giữ lửa thờ trời, được sanh trong dòng tộc ưu thắng, cha mẹ đều thanh tịnh, dòng dõi thuần lương cho đến bảy đời, cha mẹ thanh cao, tôn quý; chủng tộc thù thắng, không tạo tội lỗi, không bị phỉ báng. Được như vậy đều nhờ chủng tộc thanh tịnh. Hơn nữa, phải thông suốt tường tận năm loại ký luận, bao gồm:

1. Các lý luận căn bản[5] và pháp rốt ráo của ba bộ Vệ-đà[6].
2. Định danh các vật
3. Cai-tra-bà-na (該吒婆那)
4. Văn tự, câu cú và chương tiết.
5. Ngôn ngữ kỳ diệu của hý tiếu.

Nguyên tác

爾時,世尊告白衣金幢二婆羅門言: ‘汝等當知,諸婆羅門,自謂了達三明,名稱上族,種姓清淨,從事火天勝族中生,父淨母淨,善生善種,乃至七世,父母尊高,種族殊勝,無罪無謗,是等皆因種姓淨故.又謂洞達明了五種記論,一本母法等究竟三明,二諸物定名,三該吒婆那,四文字章句,[7].

Trong Ngũ chủng ký luận (五種記論) của bản kinh này có cụm từ Cai-tra-bà-na (該吒婆那) được phiên âm từ chữ Phạn nên không hiểu đó là gì. Điều này, sau khi tham chiếu các nguồn thư tịch ở Nikāya, chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này.
3.    Ngũ cú thuyết trong kinh tạng Nikāya.

Trong kinh tạng Nikāya, Ngũ cú thuyết được gọi là Năm thể tài (pañcamānaṃ). Cú ngữ này xuất hiện rải rác trong cả ba bộ Nikāya. Để tiện theo dõi, chúng tôi lần lượt dẫn lại kinh văn, các đoạn trích dịch sau đều do HT. Thích Minh Châu dịch.
1.     Kinh Trường Bộ, kinh Chủng Đức (D.4)

Lại Tôn giả Sonadanda là nhà phúng tụng, nhà trì chú, thông hiểu ba tập Vedà với danh nghĩa, lễ nghi, ngữ nguyên, chú giảilịch sử truyền thống là thứ năm, thông hiểu ngữ pháp và văn phạm, biện tài về Thuận thế (tự nhiên học) và tướng của vị đại nhân.
2.     Kinh Trung Bộ, kinh Brahmāyu (M.91)

 Như vầy tôi nghe.

Một thời Thế Tôn du hành ở Videha, cùng với đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị.

Lúc bấy giờ, Bà-la-môn Brahmayu trú tại Mithila (Di-tát-la) già yếu, niên cao, lạp lớn, đã đến tuổi trưởng thượng, đã gần mãn cuộc đời, tuổi đã đến một trăm hai mươi, một vị đọc tụng Thánh điển, chấp trì chú thuật, tinh thông ba tập Veda, với tự vựng, lễ nghi, ngữ nguyên và thứ năm là các cổ truyện, thông hiểu từ ngữvăn phạm, thâm hiểu Thuận thế luận và Đại nhân tướng.
3.     Kinh Tăng Chi Bộ.

Ở đây, thưa Tôn giả Gotama, vị Bà-la-môn thiện sanh cả từ mẫu và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời tổ phụ, không bị một vết nhơ nào, không bị một dèm pha nào về vấn đề huyết thống thọ sanh, nhà phúng tụng, nhà trì chú, thông hiểu ba tập Veda với danh nghĩa, lễ nghi, ngữ nguyên, chú giải và các cổ truyện là thứ năm, thông hiểu ngữ pháp và văn phạm, biện tài về thuận thế (tự nhiên học) và tướng của các vị đại nhân. Như vậy, thưa Tôn giả Gotama, các vị Bà-la-môn diễn tả ba minh các vị Bà-la-môn. (A.3.58).

Thưa Tôn giả Gotama, nếu có ai nói một cách chân chánh, vị ấy phải nói rằng: "Vị Bà-la-môn thiện sanh cả từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho đến bảy đời tổ phụ, không một vết nhơ nào, một dèm pha nào về vấn đề huyết thống thọ sanh; là nhà phúng tụng, nhà trì chú, thông hiểu ba tập Vedà với danh nghĩa, lễ nghi, ngữ nguyên, chú giảilịch sử truyền thống là thứ năm, thông hiểu ngữ pháp và văn phạm, biện tài về thuận thế (tự nhiên học) và tướng của vị Đại nhân. (A.5. 192)
4.     Nguyên tác của Năm thể tài (pañcamānaṃ).

Như vậy, trong ba bộ Nikāya vừa dẫn ở trên, Năm thể tài (pañcamānaṃ) trong bản dịch Việt gần như giống nhau tuyệt đối, chỉ khác biệt ở một vài từ đồng nghĩa. Cơ sở của sự giống nhau đó dựa trên cú ngữ Pāli:

sanighaṇḍukeṭubhānaṃ sākkharappabhedānaṃ itihāsapañcamānaṃ

Ở đây:

sanighaṇḍu: từ vựng, ngữ vựng.
keṭubhānaṃ: nghi quỹ, nghi thức.
sākkhara: âm vị học, ngữ nguyên.
pabhedāna: phân tích ngữ âm, chú giải.
itihāsa: cổ truyện, sử truyện.

Năm thể tài này được áp dụng nhuần nhuyễn trên ba bộ Vệ-đà (tiṇṇaṃ vedānaṃ pāragū). Nói cách khác, muốn tiếp cận nghiên cứu, tụng đọc và giảng thuyết ba bộ Vệ-đà theo quan điểm của Bà-la-môn là phải am tường Năm thể tài (pañcamānaṃ) cơ bản này.

Đây là cơ sở tham chiếu quan trọng để lý giải một vài trường hợp chưa rõ nghĩa trong một số bản kinh chữ Hán, mà cụ thể ở đây là Ngũ cú thuyết (五句說) trong kinh Trung A-Hàm.
5.     Đối chiếu Năm thể tài (pañcamānaṃ) trong Nikāya và các cú ngữ tương đương trong kinh văn Hán tạng.
     1.   Kinh Tạp A-Hàm

Theo kinh Tạp A-Hàm, Ngũ chủng ký (五種記)  bao gồm:

Đọc tụng các kinh điển, định danh tự vạn vật, phẩm tính sai khác của vạn vật; phép tắc chữ nghĩalịch sử xưa nay.

(誦諸經典、物類名字、萬物差品、字類分合、歷世本末,此).

So sánh:
1. Đọc tụng các kinh điển, (誦諸經典), tương đồng với từ vựng, ngữ vựng (sanighaṇḍu), cần phải thông thuộc trong ba bộ Vệ-đà (tiṇṇaṃ vedānaṃ pāragū).
2. Định danh tự vạn vật (物類名字), tương đồng với nghi quỹ, nghi thức (keṭubhānaṃ).
3. Phẩm tính sai khác của vạn vật (萬物差品), tương đồng với âm vị học, ngữ nguyên (sākkhara).
4. Phép tắc chữ nghĩa (字類分合) tương đồng với phân tích ngữ âm, chú giải (pabhedāna).
5. Lịch sử xưa nay (歷世本末) tương đồng với cổ truyện, sử truyện (itihāsa).
     2.   Kinh Phật thuyết Bạch y kim tràng nhị Bà-la-môn duyên khởi (白衣金幢二婆羅門緣起經).

Trong bản kinh này, gọi là Ngũ chủng lý luận (五種記論), bao gồm:

1. Các lý luận căn bản và pháp rốt ráo của ba bộ Vệ-đà.
2. Định danh các vật
3. Cai-tra-bà-na (該吒婆那)
4. Văn tự, câu cú và chương tiết.
5. Ngôn ngữ kỳ diệu của hý tiếu.

So sánh
1. Các lý luận căn bản và pháp rốt ráo của ba bộ Vệ-đà (一本母法等究竟三明) tương đồng với từ vựng, ngữ vựng (sanighaṇḍu), cần phải thông thuộc trong ba bộ Vệ-đà (tiṇṇaṃ vedānaṃ pāragū)

2. Định danh các vật (諸物定名) tương đồng với âm vị học, ngữ nguyên (sākkhara).
3. Cai-tra-bà-na (該吒婆那). Cụm từ này là được phiên âm từ Phạn ngữ. Theo chúng tôi, đó là sự phiên âm từ chữ keṭubhānaṃ, tức là nghi quỹ, nghi thức.
4. Văn tự, câu cú và chương tiết (文字章句) tương  đương với phân tích ngữ âm, chú giải (pabhedāna).
5. Ngôn ngữ kỳ diệu của hý tiếu (). Cần lưu ý rằng, lịch sử của Ấn Độ cổ đại nói chung được thể hiện dưới dạng trường ca, tán ca. Trường ca là một thể loại văn chương gắn liền với hý khúc. Do vậy, yếu tố thứ năm này tương đồng với cổ truyện, sử truyện (itihāsa).

     3. Kinh Trung A Hàm

Trong kinh Trung A-Hàm, thành cú Ngũ cú thuyết (五句說), gồm:

Nhân, duyên, chánh, văn và hí. (因, 緣, 正, 文,戲).

So sánh
1. Nhân (因): là căn nguyên, là những lý luận căn bản của kinh điển Vệ-đà. Tương tự như cụm từ bổn mẫu pháp (本母法)của kinh Phật thuyết Bạch y kim tràng nhị Bà-la-môn duyên khởi vừa dẫn ở trên. Như vậy, Nhân (因) tương đương với từ vựng, ngữ vựng (sanighaṇḍu), cần phải thông thuộc trong ba bộ Vệ-đà (tiṇṇaṃ vedānaṃ pāragū).

2. Duyên (緣): theo từ nguyên, là yếu tố phụ nhưng có tác dụng bổ trợ hoặc làm cho đẹp thêm, khác biệt thêm. Đơn cử như câu: áo thuần lụa trắng, quần không viền lai ( 常衣大練,裙不加緣)[8]. Cụ thể hơn, trong Đại đường Tây-vức-ký, ngài Huyền Tráng ghi: Về quy cách ba y, bộ phái vâng giữ không đồng, hoặc đường biên rộng, hẹp; hoặc đường viền, nhỏ, to. (三衣裁製,部埶不同,或緣有寬狹,或葉有小大)[9]. Như vậy, duyên (緣) ở đây mang nghĩa phân tích, chú giải (pabhedāna).
3. Chánh (正): Ngoài những nghĩa thông thường, chữ chánh (正) ở đây còn mang nghĩa là tiêu chuẩn, chuẩn tắc (標准,准則). Ở nghĩa này sẽ tương đống với chữ keṭubhānaṃ, tức là nghi quỹ, nghi thức.
4. Văn (文): có nghĩa câu, chữ văn chương (文辭,詞句). Ở nghĩa này, Văn (文) hoàn toàn tương đồng với sākkhara, tức ngữ nguyên.
5. Hí (戲): tức hí kịch (戲劇), nghĩa là diễn lại sự tích cũ, gọi là vở kịch, vở tuồng. Ở nghĩa này, Hí (戲) tương đồng với chữ itihāsa, nghĩa là cổ truyện, s truyện.
6. Nhận địnhđề xuất.
Như vậy, Ngũ cú thuyết (五句說) trong kinh Trung A-Hàm là năm thể tài (pañcamānaṃ) mà một vị Bà-la-môn cần phải tinh thông mới được gọi là Bà-la-môn thông đạt tam minh. Do ảnh hưởng từ nhiều yếu tố, thế nên khi dịch sang Hán ngữ thì năm thể tài này được diễn đạt khác nhau, tùy theo từng bộ kinh, tùy theo kiến thức, quan điểm của từng nhà phiên dịch.

Ở đây, từ những đối chiếu và phân tích ở trên, thành cú Ngũ cú thuyết (五句說) trong kinh Trung A-Hàm bao gồm: nhân, duyên, chánh, văn và hí. (因,緣,正,文,戲), chúng tôi kính đề nghị chuyển dịch là:

Căn nguyên, chú giải, nghi quỹ, văn chươngcổ sử.

 



[1] 大正新脩大藏經第 50 冊 No. 2059《高僧傳》, 卷第一. Nguyên văn:跋[14]證口誦經本。T50n2059_p0328b08║外國沙門曇摩難提筆受為梵文

[2] 大正新脩大藏經第 55 冊 No. 2145《出三藏記集》, 卷第二.

[3] 大正新脩大藏經第 50 冊 No. 2059《高僧傳》, 卷第一. Nguyên văn: 提婆乃於般若臺。T50n2059_p0329a12║手執梵文口宣晉語

[4] 大正新脩大藏經第 2 冊 No. 99. 雜阿含經, 卷第三十一.[1]

[5] 大正新脩大藏經第 54 冊 No. 2131 翻譯名義集, : 梵語摩怛理迦。此云. 能生妙T54n2131_p1110c23║慧. 妙慧因論而生. 故展轉翻為論也. Tham chiếu, Hiển dương Thánh giáo, quyển 12: hết thảy sách vở, toán thuật, văn thơ và luận lý đều xuất phát từ bổn mẫu (世間一切書算詩論皆有T31n1602_p0538c24║).

[6] Nguyên tác tam minh (三明). Một cách gọi khác chỉ cho ba bộ Vệ-đà.

[7] 大正新脩大藏經第 1 冊 No. 10, 白衣金幢二婆羅門緣起經, 卷上.

[8] 後漢書,皇后紀上, 明德馬皇后.

[9] 大正新脩大藏經第 51 冊 No. 2087 大唐西域記, 卷第二

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1331)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
(Xem: 1553)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
(Xem: 1687)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1657)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 1047)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1536)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1531)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1701)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1962)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1557)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1387)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1398)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1582)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1172)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1303)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1309)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1720)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1670)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 3043)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1852)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1389)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1236)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1296)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1435)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1340)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1937)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1710)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1910)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1843)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2420)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1806)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2164)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2269)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2329)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1875)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 1992)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 2052)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 1988)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 2631)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1967)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1920)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1974)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1931)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2203)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2351)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 2021)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2137)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1902)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1953)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2449)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2358)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 4083)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2527)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3231)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2504)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2076)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1815)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3334)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
(Xem: 2377)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant