Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Màu Áo Cà Sa Trong Kinh Pháp Cú

30 Tháng Ba 202007:48(Xem: 4630)
Màu Áo Cà Sa Trong Kinh Pháp Cú

MÀU ÁO CÀ SA
TRONG KINH PHÁP CÚ


Tâm Minh Ngô Tằng Giao

ca sa

     Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia. Những đặc điểm chính của người xuất giatrong sạch, hoàn toàn độc thân, tự ý sống nghèo nàn, khiêm tốn, đơn giản, phục vụ một cách vị tha, nhẫn nại, bi mẫn và thanh tao nhã nhặn. Ngoài việc học hỏi giáo lý, tu trì “Giới, Định, Tuệ” người xuất gia còn có nhiệm vụ trao truyền những tinh hoa Phật Pháp cho mọi người, tạo cho họ niềm tin đối với Phật Pháp.

     Y vàng, hay áo cà sa là một sắc tướng tượng trưng hạnh từ khước, dứt bỏ, xuất gia. Nhuộm y màu vàng để cho bộ y hết đẹp, không còn giá trị vật chất. Sắc tướng bên ngoài của đời sống thiêng liêng đạo hạnh không có nghĩa lýnếu không có sự trong sạch bên trong.     

     Truyện tích kể rằng phần đông thiện tín ưng thuận dâng một bộ y quý giá đến Đại đức Đề Bà Đạt Đa thay vì dâng đến Đại đức Xá Lợi Phất là vị đại đệ tử của Đức Phật. Một vài thiện tíntâm đạo, thấy Đề Bà Đạt Đa đắp y, ngỏ ý rằng thầy không xứng đáng được danh dự ấy. Nhân cơ hội, Đức Phật dạy rằng trong một tiền kiếp Đề Bà Đạt Đa làm thợ săn voi trong rừng. Hắn thấy voi thường quỳ xuống đảnh lễ mỗi khi một vị Phật Độc Giác đi ngang qua. Hắn bèn nghĩ ra mưu kế để săn voi. Hôm sau khi vị Phật cởi áo ra tắm bên bờ suối, hắn lấy trộm y vàng để nguỵ trang cho dễ giết voi. Số voi bị giết chết đi dần dần. Khi voi đầu đàn khám phá ra mưu kế gian manh đó voi bèn xông lên trước dùng vòi quật ngã thợ săn, định giết chết, nhưng thấy bộ y vàng trên người nên tha chết cho hắn. Đức Phật dạy rằng khi tâm chưa rời bỏ những điều tham dục, không tự kiềm chế được mình và thiếu thành thật thì không xứng đáng mặc áo nhà tu:

(Pháp Cú 9)

Nếu mà mặc áo cà sa

Lòng còn ô uế, tâm tà quẩn quanh

Chưa tự chế, thiếu chân tình

Xứng đâu mà khoác vào mình áo kia.

     Nhận thấy rằng xa hoa vật chấtảo huyền và thú vui vật chất không tạo hạnh phúc thật sự, tu sĩ tự nguyện lìa bỏ tất cả sự nghiệp trên đời để khoác trên mình chiếc y vàng và cố ghép mình vào nếp sống hoàn toàn trong sạch. Tuy nhiên, không phải sắc tướng bề ngoài mà là sự thanh lọc bên trong và đời sống gương mẫu làm cho con người trở nên trong sạch. Sự thay đổi từ trong ra ngoài chứ không phải bên ngoài mà thôi.

     Một ông quan đại thần sau khi đánh dẹp loạn quân đắc thắng trở về được vua ban thưởng vàng bạc rất nhiều lại tặng thêm một cô vũ nữ tuyệt đẹp. Trong bảy ngày đêm ông hưởng các lạc thú vật chất, tiệc tùng tưng bừng. Cô vũ nữ giúp vui. Hôm sau cả đoàn kéo nhau ra bờ sông tắm rửa. Tắm xong lên bờ bày tiệc rượu ca hát. Chiều trở về dinh tiệc vui lại tiếp tục. Cô vũ nữ trang phục lộng lẫy, trong lúc đang múa hát thời ngã lăn ra bất tỉnh, sùi bọt mép rồi chết luôn. Ông rất âu sầu, đến hầu Phật và được nghe Đức Phật giảng giáo pháp. Sau khi nghe xong ông đắc quả A La Hánnhập diệt luôn, mặc dầu lúc ấy ông ăn mặc rất sang trọng. Các thầy Tỳ kheo bạch hỏi Đức Phật có nên gọi vị ấy là Sa môn không. Đức Phật dạy rằng không nên đánh giá con người bằng y phục “Đặc tính thánh không tùy thuộchình dáng bề ngoài. Sự trong sạch đến từ bên trong, chính sự thanh tịnh bên trong là chính yếu”:

 (Pháp Cú 142)

Người nào sống thật trang nghiêm

Thân tâm an tịnh, giữ gìn đường tu

Bao nhiêu dục vọng diệt trừ

Không hề buông thả hững hờ giác quan

Lại thêm giới hạnh chu toàn

Sinh linh chẳng hại, tính luôn ôn hòa

Dù cho ăn mặc xa hoa

Vẫn là tu sĩ, là Bà La Môn.

     Đức Mục Kiền Liên dùng thần thông đem hai vợ chồng một ông chưởng khố rất giàu có nhưng tính keo kiệt đến trước mặt Đức Phật. Khi nghe thuyết Pháp xong cả hai xin quy y. Nghe những vị Tăng sĩ khác tán dương phẩm hạnh của ngài Mục Kiền Liên, Đức Phật lưu ý rằng những vị tốt như Đức Mục Kiền Liên phải làm cho người khác đặt niềm tin nơi mình mà không hề gây tổn hại đến ai, đi trì bình khất thực mà không gây phiền phức cho ai:

(Pháp Cú 49)

Sa môn khất thực trong làng

Ví như ong lượn nhịp nhàng bên hoa

Kiếm tìm mật nhụy hút ra

Xong rồi tung cánh bay qua cuối vườn

     Một tăng sĩ trụ trì có lòng ganh tỵ với hai vị khách vốn là đại đệ tử của Đức Phật từ xa đến viếng, vì hai vị này được chủ nhà kính mộ. Chủ nhà nổi nóng khiển trách thầy. Thầy lăng mạ chủ nhà và đem câu chuyện bạch lại với Đức Phật. Đức Phật khuyên thầy nên sám hối, không nên ích kỷ và có nhiều tham vọng, không nên chấp điều gì là “ta” và “của ta”. Ngài dạy thêm rằng “Người si mê thường hay tìm danh vọng mà họ không xứng đáng. Muốn địa vị cao trong Tăng chúng, quyền thế trong chùa chiền, danh vọng ngoài xã hội”:

(Pháp Cú  73)

Kẻ ngu thường muốn hư danh

Ngồi trong Tăng chúng muốn giành chỗ trên,

Trong Tăng viện muốn uy quyền,

Muốn người cung kính đến xin cúng dường.

 

(Pháp Cú 74)

Để cho kẻ tục, người Tăng

Phục ta và phải nghĩ rằng ta đây:

“Chính ta làm được việc này!”

Hay: “Ta ra lệnh đó đây thi hành!”

Kẻ ngu cuồng vọng khoe mình,

Lòng tham, ngạo mạn tăng nhanh với đời.

     Vị Sa di kia xuất thân từ một gia đình khả kính, được thiện tín tới tấp dâng lễ vật cúng dường. Nhưng ông chẳng màng, từ chối tất cả, chấp nhận đời sống đơn độcnghèo nàn ở chốn rừng sâu. Một ngày tươi sáng nọ vị Sa di thành đạt đạo quả A La Hán. Các vị Tỳ kheo hết lời tán dương phẩm hạnh gương mẫu của vị này. Nghe câu chuyện, Đức Phật mô tả hai con đường khác nhau, một dẫn đến lợi lộc và một đến Niết Bàn. Ngài dạy “Không nên thoả thích trong mùi danh bả lợi của thế gian mà phải trau dồi tâm dứt bỏ”:

 (Pháp Cú 75)

Một đường danh lợi thế gian

Một đường đưa tới Niết Bàn cao xa

Tỳ Kheo đệ tử Phật Đà

Nhủ lòng cho rõ để mà bước chân,

Đừng nên tham đắm lợi trần,

Đạo mầu giải thoát chuyên tâm trau dồi!    

     Các vị xuất gia là các bậc mô phạm, thực thụ sống đời sống phù hợp với lời dạy của Đức Phật. Do đó, để chế ngự việc thèm thuồng vật thực, để tâm được nhẹ nhàng khoan khoái, tu sĩ phải sống đời sống giản dị và thanh đạm. Cuộc sống xa hoa sẽ biến con người trở nên nô lệ của tham vọng. Nên ở độc thân, vì tất cả năng lực nhờ đó mà được bảo tồn trọn vẹn để có thể dùng vào việc trau dồi tinh thầnđạo đức cho mình, cho người khác. Phải kiểm soát hành động lời nói và thu thúc sáu căn chặt chẽ. Như vậy, sự tinh tấn sẽ thúc đẩy người xuất gia khước từ những lạc thú trần gian và chấp nhận đời tu sĩ, đi lang thang, rày đây mai đó, không luyến ái một nơi ở nhất định nào, hoàn toàn tự do.

     Một vị Tỳ kheo cất vật thực để sau này dùng. Đức Phật khuyên thầy không nên làm như vậy và giải thích thêm tác phong chân chính của một vị Tỳ kheo thuần thành:

 (Pháp Cú 92)

Không màng tài sản chứa đầy

Uống ăn chừng mực qua ngày để tu

Thoát vòng đau khổ, ưu tư

Thảnh thơi theo cánh gió đưa Niết Bàn

Như chim bay giữa không gian

Tìm chim, dấu vết vô vàn khó thay.

     Vì thiện tín đem vật thực dồi dào dâng đến một Đại đức nên có vài vị Tỳ kheo bàn tán rằng Đại đức đã dặn dò các thí chủ làm như vậy để tỏ ra mình có nhiều uy tín. Đức Phật dạy rằng chính tâm trong sạch bố thí của thiện tín tự nhiên phát sinh chứ không phải do Đại đức xúi giục, người không ô nhiễm không mất thì giờ để nói chuyện về “tứ vật dụng” là bốn món cần thiết cho đời sống Tỳ kheo. Ngài dạy “Người đã tận diệt được lòng ham muốn, không còn nghĩ tới cao lương mỹ vị, đã thành đạt giải thoát, không còn bị dục lạc kích thích, thì đường đi của họ thênh thang, tự dothoải mái như đường của chim bay giữa không trung”:

 (Pháp Cú 93)

Nhiễm ô, ham muốn diệt ngay

Uống ăn chừng mực qua ngày để tu

Thoát vòng đau khổ, ưu tư

Thảnh thơi theo cánh gió đưa Niết Bàn

Như chim bay giữa không gian

Tìm chim, dấu vết vô vàn khó thay.

     Tỳ kheo đúng theo nghĩa là người đi xin. Các thầy chỉ lặng lẽ đứng trước cửa để người ta sớt thức ăn vào bát và chỉ sống với vật thực nào mà người thí chủ vui lòng đặt vào bát một cách hồn nhiên. Nhưng không phải chỉ vì lý do giản dị là đi xin kẻ khác mà người ấy là Tỳ kheo. Tỳ kheo phải là người đã chấp nhận toàn thể giới luật. có liên quan đến đời sống Tỳ kheo. Một vị Bà La Môn từ bỏ thế gian để sống đời đạo sĩ du phương khất thực. Một hôm ông gặp Đức Phậtthỉnh cầu Đức Phật gọi ông là Tỳ kheo vì ông cũng đi trì bình khất thực như những tu sĩ Phật Giáo. Đức Phật đáp rằng không phải chỉ đi khất thựctrở thành Tỳ kheo:

(Pháp Cú 266)

Chỉ đi khất thực từng nhà

Làm sao đủ gọi được là Tỳ Kheo,

Người tu chân chánh phải theo

Bao nhiêu giới luật là điều tối cao

Gọi Tỳ Kheo xứng làm sao,

Chỉ riêng khất thực lẽ nào xứng danh.

 

     Đức Phật còn nhấn mạnh thêm rằng người phẩm hạnh cao, vượt khỏi cả thiện lẫn ác, có trí tuệ thông suốt, mới đáng gọi là thầy tu. Vượt xong điều thiện là siêng năng làm các điều lành, làm điều lành đã quen, đã siêng, nên chẳng cần cố gắng, chẳng thấy khó nhọc chi, nên gọi là vượt xong điều thiện.  Vượt xong điều ác là bỏ dứt được các điều bất thiện:

 

(Pháp Cú 267)

Bao nhiêu thiện, ác vượt xong

Tu hành thanh tịnh, tác phong cao vời

Sống đầy hiểu biết ở đời

Xứng danh được gọi là người Tỳ Kheo.    

     Nhân một nhóm tăng sĩ trong khi an cư kiết hạ tại một vùng đã âm mưu giả vờ tâng bốc nhau. Người này khoe người kia thành đạt quả vị này hay quả vị khác nhưng thật sự không có ai chứng đắc được gì hết. Họ làm như vậy để được thiện tín cúng dường dồi dào trong khi vùng đó đang bị đói khổ, thực phẩm khan hiếm. Đức Phật chê trách thái độ “tăng thượng mạn” đó. “Tăng thượng mạn” là sự khoe khoang của người tu hành, chưa chứng đắc quả vị mà tự nhận đã chứng đắc. “Tăng” là gia tăng thêm lên. “Thượng” là trên. “Mạn” là kiêu căng, tự cao, tự đại:

 (Pháp Cú 308)

Hay phá giới, chẳng tu hành

Thà nuốt sắt đỏ vào mình nóng ran

Như cho lửa cháy đốt thân

Còn hơn thọ lãnh nhân dân cúng dường.        

     Vị tu sĩ nọ đang hành thiền trong một khu vườn chơi. Một kỹ nữ cũng có hẹn hò với một người đàn ông trong khu vườn ấy, nhưng người này không đến. Chờ người hẹn mãi mà không thấy, cô gặp nhà sư đang ngồi một mình. Thấy diện mạo tuấn tú của vị tu sĩ cô mới sinh lòng quyến luyến và lại gần trêu ghẹo, quyến rũ. Nhà sư bị kích động, vừa sợ hãi vừa cảm thấy toàn thân được một sự thoả thích lâng lâng tràn ngập. Dùng thiên nhãn thấy vậy, Đức Phật xuất hiện trước mặt vị Tỳ kheo và dạy rằng khi ngồi thiền thời nên chọn nơi rừng sâu vắng vẻ mới khỏi bị sa ngã. Người đã dứt bỏ dục vọng, thích ở ẩn dật, nơi mà người trần tục không thích ở:

 (Pháp Cú 99)

Núi rừng tịnh lạc, nên thơ

Nhưng người phàm lại không ưa chốn này,

Riêng người giải thoát khác thay

Tỏ ra thích ở nơi đây vô cùng

Vì bao dục lạc dứt xong.

     Một vị Tăng sĩ nọ có thói quen, mỗi khi tranh luận với ai mà thấy đuối lý thời mời người ấy đến một nơi khác, vào một giờ hẹn trước, để tiếp tục thảo luận cho ra lẽ. Nhưng đến ngày hẹn, thầy lại tới chỗ hẹn trước giờ và tuyên bố là vị kia đã thua tài biện luận của mình vì không thấy đến nơi hẹn. Khi câu chuyện được bạch lại với Đức Phật, Đức Phật giải thích thái độ của người thật sự đáng là Tỳ kheo “Chẳng phải cạo trọc đầu mà có được danh nghĩa Sa môn. Kẻ đã dứt trừ xong mọi ác ý mới là Sa môn”:

(Pháp Cú 264)

Người mà nói dối, nói sai

Lại thêm phá giới, sống đời buông lung

Dù đầu cạo tóc hết luôn

Cũng chưa xứng gọi Sa Môn tu hành

Huống còn tham dục đầy mình

Làm sao lại xứng trở thành Sa Môn.

 

(Pháp Cú 265)

Bao nhiêu điều ác ở đời

Dù cho lớn, nhỏ ai người dứt luôn

Chính nhờ điều ác không còn

Xứng danh được gọi Sa Môn tu hành.  

 

     Vài vị Tỳ kheo đã thành đạt những tiến bộ tinh thần khá cao nhưng không kiên trì tinh tấn để đắc quả A La Hán ngay. Họ nghĩ rằng họ đã thành công trong việc tu tập như thế thời dễ dàng có thể trở thành A La Hán lúc nào cũng được. Họ đến yết kiến Đức Phật và nói lên ý nghĩ đó. Ngài khuyên “Chẳng phải vì thuộc giới luật, học rộng, nghe nhiều, chứng ngộ tu thiền, sống cô độc mà tự mãn khi chưa thành đạt mục tiêu cuối cùng, khi mà mê lầm, phiền não còn trong tâm”. Các Tỳ kheo nhờ đó mà tinh tấn tu tập hơn và chứng quả:

 

(Pháp Cú 271 - 272)

Không vì giới luật luôn theo

Không vì học rộng, nghe nhiều giỏi thêm

Không vì chứng ngộ tu thiền

Hay là cô độc sống riêng một mình

Mà cho là đã đạt thành

“Niềm vui giải thoát, hương lành xuất gia

Phàm phu không thể sánh qua!”

Tỳ Kheo chớ có tỏ ra bằng lòng

Khi mà trừ diệt chưa xong

Mê lầm, phiền não còn trong tâm mình.  

     Năm thầy Tỳ kheo, mỗi thầy tự chế một giác quan. Các thầy bạch hỏi Đức Phật để biết giác quan nào khó chế ngự hơn hết. Đức Phật dạy điều phục giác quan nào, căn nào, cũng khó như nhau, nhưng người tu hành đồng thời phải chế ngự được đủ các căn mới tiến đến được giải thoát:

(Pháp Cú 360 - 361)

Người nào chế ngự được ngay

Mắt, tai, mũi, lưỡi: lành thay vô ngần!

Lại thêm chế ngự được thân

Cũng như lời nói và tâm ý mình

Nói chung quả thật tài tình!

Tỳ Kheo nào bản thân mình thật hay

Chế ngự xong mọi điểm này

Khổ đau giải thoát, đọa đày tiêu tan.

     Một Tỳ kheo có tài ném đá, trăm phát trúng cả trăm. Một hôm thầy ra tắm sông cùng một số bạn đồng tu. Muốn khoe khoang tài của mình, thầy liệng cục đá vào đầu một trong hai con thiên nga đang bơi lội gần đó, làm nó bị chết. Để khuyên dạy, Đức Phật giải thích trạng thái thích đáng mà một người Tỳ kheo cần phải có:

 (Pháp Cú 362)

Người nào chế ngự tay chân

Giữ gìn lời nói và tâm ý mình

Thích ưa thiền định nhiệt thành

Độc thân, tự tại, tu hành cô liêu

Biết đầy đủ, chẳng ham nhiều

Xứng danh là bậc Tỳ Kheo vô cùng.

     Một thầy Tỳ kheo đã lăng mạ hai vị đại đệ tử của Đức Phật là các tôn giả Xá Lợi PhấtMục Kiền Liên nên bị đọa địa ngục. Đức Phật nhân cơ hội này dạy rằng một Tỳ kheo phải kiểm soát lời nói, ăn nói hiền từ hoà nhã, không tự phụ, thì khi diễn bày ý nghĩa của kinh điển lời sẽ êm dịu rõ ràng. Ăn nói khôn khéo ở đây có nghĩa là trí tuệ:

(Pháp Cú 363)

Tỳ Kheo ngôn ngữ thuần rồi

Nói câu khôn khéo, tránh lời tự cao

Thì khi giảng Pháp ngọt ngào

Muôn phần êm dịu, xiết bao rõ ràng

 

     Một vị Tăng sĩ biết Đức Phật sắp nhập Niết Bàn, cố tránh không làm theo những vị khác. Thầy rút về tịnh thất mình, lấy giáo pháp làm đề mục hành thiền nhằm thành đạt đạo quả A La Hán. Vì hiểu lầm thái độ của thầy, các vị khác đem câu chuyện bạch lại với Đức Phật. Khi nghe thầy đó giải thích ý định của mình, Đức Phật tán dương thầy:

 

(Pháp Cú 364)

Tỳ Kheo chánh pháp tuân theo

Một lòng suy tưởng, mến yêu đạo mầu

Tư duy chánh pháp thâm sâu

Sẽ không sa đọa. Chẳng bao giờ rời

Mãi theo chánh pháp tuyệt vời.

     Một thầy Tỳ kheo nhận lời mời của một đệ tử của Đề Bà Đạt Đa đến tu viện riêng của Đề Bà Đạt Đa và sống vài ngày trong sự tiếp đón nồng hậu của chủ. Khi trở về chùa, các vị khác đem câu chuyện bạch lại với Đức Phật. Đức Phật khuyên dạy thầy và các vị khác là “nên biết đủ” và “đừng khinh thường những gì mình thọ lãnh”:

(Pháp Cú 365)

Điều mình thọ lĩnh được rồi

Chớ nên coi rẻ, buông lời khinh khi,

Người ta thọ lĩnh được chi

Chớ thèm, chớ muốn thứ gì của ai,

Tỳ Kheo ganh tỵ người ngoài

Khó mà an trú cho nơi tâm mình

Bao điều thiền định tốt lành.

 

(Pháp Cú 366)

Tỳ Kheo thọ lĩnh cúng dường

Ít nhiều cũng chẳng coi thường khinh chê

Cứ luôn sinh hoạt mọi bề

Siêng năng, thanh tịnh không hề buông lơi

Chư thiên khen ngợi hết lời.

 

     Từ bi chất chứa trong tâm và Tỳ kheo luôn luôn đem nguồn vui đến cho mọi người, cứu khổ mọi loài. Tỳ kheo lấy từ tâm đối xử với mọi người, vui thích với giáo pháp, sẽ đạt đến cảnh giới an lạcđược giải thoát khỏi sầu khổ:

 

(Pháp Cú 368)

Tỳ Kheo chất chứa trong tâm

Từ bi hoa nở hương thầm bay xa

Vui trong giáo pháp Phật Đà

Sẽ mau đạt cảnh thăng hoa Niết Bàn

Nhanh siêu thoát, sớm bình an

Chẳng còn phiền não, vô vàn sướng vui.

 

     Người dứt bỏ thằng thúc sẽ vượt qua trận lụt, “vượt dòng nước lũ mênh mông”, tức là đã giác ngộgiải thoát:

 

 (Pháp Cú 370)

Tỳ Kheo nào cắt đứt xong

Năm điều phiền não chẳng còn vấn vương,

Năm điều ô trược dứt luôn,

Năm căn lành tốt tìm phương trau dồi,

Năm điều trói buộc vượt rồi

Xứng danh được gọi là người thành công

“Vượt dòng nước lũ” mênh mông.

 

     Cắt đứt được năm điều phiền não là: cái tôi, hoài nghi, cố chấp sai lầm trong nghi thức cúng tế, luyến áisân hận. Dứt bỏ được năm điều ô trược là: tham ái, sân hận, phóng dật, kiêu căngmê muội. Trau dồi năm căn lành tốt là: lòng tin nơi “Tứ Diệu Đế”, ý niệm chánh pháp, quyết tâm tu tập, tâm không vọng động và suy xét hiểu rõ chân lý. Vượt khỏi năm điều trói buộc là: tham ái, sân hận, si mê, ngã mạntà kiến.

 

     Đức Phật dạy rằng Tỳ kheo phải chuyên cần hành thiền, đừng xao lãng, phải hết sức chú ý và tập trung tư tưởng, theo dõi hơi thở, giữ chánh niệm và tỉnh giác, đừng để tâm chạy theo dục lạc. Không vì phóng túng mà nuốt hòn sắt nóng dục lạc. Lúc cháy phỏng mới ăn năn, than thở thì đã muộn rồi:

 

(Pháp Cú 371)

Tỳ Kheo hãy cố tu thiền

Chớ nên buông thả, chớ nên lơ là

Tâm mình ái dục tránh xa

Đừng chờ nuốt sắt nóng mà kêu than:

“Thân thiêu đốt khổ vô vàn!”

 

     Tỳ kheo sống nơi tĩnh mịch thời tâm yên tịnh. Hiểu rõ chánh pháp thì sẽ hưởng được niềm vui cao thượng hơn các niềm vui của người trần thế:

 

(Pháp Cú 373)

Tỳ Kheo ẩn dật sống nhàn

Luôn luôn yên tịnh vô vàn trong tâm

Bao điều chánh pháp nhận chân

Sẽ vui hưởng thú siêu nhân hơn người.

 

     Người suy niệm biết rõ lẽ sinh và diệt của “ngũ uẩn”, của năm nguyên tố hòa hợp lại tạo thành thân và tâm con người, thì sẽ hình dung được niềm vui và hạnh phúc của những người đã thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi:

 

(Pháp Cú 374)

Ai mà suy nghĩ, nhận chân

Lẽ sinh diệt của thân tâm này rồi

Thân tâm ngũ uẩn con người,

Hưởng ngay hạnh phúc, niềm vui tốt lành

Của người thoát khỏi tử sinh.

 

     Tỳ kheotrí tuệ phải lo chế ngự lục căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý), tự biết đủ, nghiêm trì giới luật, giao thiệp với những người có đức hạnh, trong sạchchuyên cần. Phải chân thành thân thiện, đoan chính, thanh cao. Tỳ kheo đó sẽ dứt sạch phiền não, có nhiều niềm vui:

 

(Pháp Cú 375 - 376)

Tỳ Kheo có trí hiểu rằng

Phải lo chế ngự lục căn cho lành,

Tự mình biết đủ phần mình,

Đạo mầu giới luật nghiêm minh giữ gìn

Kết thân với các bạn hiền

Có tài, có đức lại thêm chuyên cần.

Chân thành giao thiệp xa gần

Tác phong đoan chính muôn phần thanh cao,

Được như vậy tốt là bao

Xua đi phiền não, đón vào sướng vui.

     Năm trăm vị Tỳ kheo đi vào rừng vắng tu tập thiền định. Nơi đây các vị đó quan sát những cánh hoa lài nở tươi đẹp vào buổi sáng rồi đến chiều thì tàn úa rơi xuống đất. Các vị đó suy niệm và nung chí lên, chuyên cần hành thiền. Đức Phật biết vậy, rọi hình ảnh Ngài trước mặt các thầy và dạy “Này các Tỳ kheo! Hãy dứt bỏ trọn vẹn tham, sân, như bông lài buông rơi những cánh hoa tàn”:

(Pháp Cú 377)

Như hoa lài lúc héo tàn

Buông rơi cánh úa theo làn gió kia,

Tỳ Kheo theo đó khác chi

Tham và sân xả hết đi mọi đường.

     Thuở ấy có một thầy Tỳ kheo ở chùa Kỳ Viên rất an tịnh, nhàn nhã. Tính tình trầm tĩnh, đi đứng nghiêm trang, thường ngồi, nằm nơi vắng vẻ, ít nói, ít tiếp chuyện với bạn đồng tu. Tác phong tự tại của thầy làm mọi người lưu ý. Mọi người mới đến thưa trình cùng Đức Phật. Đức Phật cho biết kiếp trước thầy Tỳ kheo này là một con sư tử chúa, dáng điệu rất oai vệ, săn được mồi, ăn xong liền nằm im lặng lẽ. Ngài dạy các Tỳ kheo nên noi theo gương đó:

 

(Pháp Cú 378)

Tỳ Kheo thanh tịnh bản thân

Ôn hòa ngôn ngữ, bình an tâm hồn

Ung dung tự tại luôn luôn

Không màng dục lạc thế nhân thường tình

Con người an tịnh xứng danh!

     Một Tỳ kheo say mê phẩm hạnh của Đức Phật, cứ mãi ngồi chiêm ngưỡng dung nhan Ngài. Đức Phật khuyên Thầy không nên làm vậy và dạy rằng người nào thấy giáo pháp tức là thấy Phật. Thầy bất mãn, trèo lên một tảng đá, toan từ đó nhảy xuống quyên sinh, Đức Phật thấy vậy xuất hiện trước mặt thầy. Gặp Đức Phật, thầy vượt qua cơn sầu và cảm thấy hoan hỷ. Nhân cơ hội Đức Phật đọc lên câu kệ sau đây. Thầy cố gắng hành thiền và về sau đắc quả A La Hán:

 

(Pháp Cú 381)

Tỳ Kheo hoan hỷ bản thân

Tin theo Phật pháp với tâm chân thành

Sẽ mau đạt cảnh an lành

Thân tâm phiền não sớm thanh tịnh liền.

 

     Đức Phật tuyên ngôn những lời sau đây khi tán dương một thầy Tỳ kheo trẻ tuổi có nhiều oai lực thần thông:

 

(Pháp Cú 382)

Tỳ Kheo tuy trẻ tuổi thôi

Nhưng mà Phật pháp tu thời siêng năng

Sẽ là ánh sáng huy hoàng

Rạng soi toàn cõi thế gian mịt mờ

Như trăng ra khỏi mây mù.

     Đức Phật không quên nhắc nhở các vị Sa môn xuất gia, phải biết tôn trọng áo cà sagìn giữ giới hạnh. Đức Mục Kiền Liên thấy một con quỷ đói có hình dáng như một bộ xương khô. Lần khác thấy những con quỷ hình dáng Sa môn đang phừng phừng bốc cháy. Ngài về trình lại cho Đức Phật nghe. Ngài giải thích rằng đó là các tăng sĩ ô nhiễm trong kiếp sống ở quá khứ nay chịu hậu quả này:

(Pháp Cú 307)

Dù cho mặc lắm cà sa

Nhưng mà hạnh ác, gian tà chẳng ngăn

Sau vì nghiệp ác mình làm

Chết vào địa ngục gian nan đọa đày.

   

     Một Tỳ kheo vô ý cắt đứt một nắm cỏ, phạm vào giới luật cấm đốn cây. Tuy đã theo đúng thủ tục thú tội với bạn đồng tu nhưng trong tâm tu sĩ đó vẫn còn thắc mắc. Một Tỳ kheo khác khuyên rằng đó là giới cấm nhỏ, không đáng để ý, vị này có tính ngang nhiên tự phụ nên khuyên xong bèn tự mình cúi xuống nhổ một nắm cỏ, coi đó là việc tầm thường. Đức Phật dạy là chớ lơ là trong việc giữ gìn giới luật. Tương tự như lá cỏ sắc bén tựa lưỡi dao, nếu chẳng khéo cầm giữ sẽ bị đứt tay. Kẻ tu hành mà không giữ giới hạnh nghiêm túc sẽ bị sa vào địa ngục. Theo tà hạnh sẽ đưa đến đau khổ:

 

 (Pháp Cú 311)

Cỏ kia sắc tựa lưỡi dao

Những người vụng dại nắm vào đứt tay,

Sa Môn tà hạnh còn đầy

Tất nhiên địa ngục đọa ngay tức thì.

 

(Pháp Cú 312)

Ai mà phóng đãng buông lung

Không theo giới cấm, vô cùng nhiễm ô

Sống đời đạo hạnh đáng ngờ

Không sao chứng quả, khó mà thành công.

     Gặp việc đáng làm thì phải làm cho tận tâm. Tu hành mà không giữ giới cho nghiêm túc, thì sẽ bị lục trầndục vọng lôi cuốn vào đường tội lỗi. Đức Phật dạy:

 

(Pháp Cú 313)

Việc cần làm, phải nên làm

Làm cho hết sức, tận tâm, nhiệt tình,

Xuất gia mà chẳng giữ mình

Hành vi phóng đãng, tu hành buông lơi

Chỉ gieo cát bụi cho đời.    

     Sau khi đã tìm hiểu một số lời dạy của Đức Phật với chư Tăng, Ni, chúng ta đã hình dung ra được phần nào nếp sống chân chính của những người đang khoác trên mình màu áo cà sa khả kính. Trở lại với chính hình ảnh của Đức Phật từ thuở xa xưa, chúng ta thấy trên mọi nẻo đường khất thực và hoằng hóa, Ngài luôn luôn đi chân không và đi bộ với bình bát trên tay. Giản dị chỉ có thế. Dung dị trong bộ áo cà sa, trong tấm y vàng có những lúc chỉ là y phấn tảo. Tấm lót ngồi làm bằng cỏ khô đan lại. Có những lúc Ngài trú mưa qua một đêm trong một chái nhà lá của thợ làm đồ gốm một mình. Ngài sinh ra dưới cội cây, và nhập Niết Bàn cũng dưới cội cây, chỉ đơn giản nằm nghiêng trên chiếc võng dây treo giữa hai cây Ta la song đôi. Cuộc sống dung dị nhưng thơ mộng biết bao! Đẹp đẽ biết bao! Xúc cảm biết bao! Chính những hình ảnh, những nét vẽ dung dị đó là những hào quang tối thượngkỳ diệu nhất để cho chúng ta chiêm ngưỡng. Nội dung giáo hoá của Đức Phật vẫn luôn là Giới, Định, Tuệ qua thân giáo và khẩu giáo.

     Cần nhấn mạnh lại ở đây rằng Đức Phật đã định rõ giá trị lý tưởng của một người tu xuất gia phải căn cứ vào cá tính và thái độ, hơn là vào hình dáng, hơn là vào bộ áo cà sa mà quý vị đó đang khoác bên ngoài.

____________________________________________

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1330)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1353)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 1065)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1229)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1706)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1635)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1535)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 1115)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1500)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1453)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1370)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1425)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1758)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 2038)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1477)
Chúng ta đau khổ do vì vô minh, cho nên chúng ta cần phải đoạn trừ những quan điểm lệch lạc sai lầm và phát triển quan điểm đúng đắn.
(Xem: 1131)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh, bất đoạn và bất thường, bất nhất và bất dị, bất lai và bất xuất, là sự tịch diệt mọi hý luận, và là an ổn.
(Xem: 1471)
Lý tưởng giáo dục và những phương pháp thực hiện lý tưởng này, hiển nhiên Phật giáo đã có một lịch sử rất dài.
(Xem: 2128)
Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士), Thiền sư Việt Nam đời Trần (1230-1291) có viết trong bài Phóng cuồng ngâm (放狂吟):
(Xem: 1519)
Nhân loại luôn luôn hướng về sự hoàn thiện của chính mình trong tất cả mọi mặt, vật chấttinh thần.
(Xem: 1594)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
(Xem: 1439)
Có phải bạn rất đỗi ngạc nhiên về tiêu đề của bài viết này? Có thể bạn nghĩ rằng chắc chắn có điều gì đó không ổn trong câu chuyện này, bởi vì lịch sử về cuộc đời của đức Phật xưa nay không hề thấy nói đến chuyện đức Phật đi tới Châu Âu và Châu Phi. Bạn nghĩ không sai.
(Xem: 2990)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1430)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông, như một số vị thầy hiện nay đã ngộ nhận, khi nói rằng pháp môn này xuất phát từ Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết
(Xem: 1445)
Trong quá trình phát triển, Phật giáo xuất hiện tư trào Đại thừa, nhấn mạnh lý tưởng Bồ tát đạo.
(Xem: 1773)
Tuy Phật giáo Nguyên thủyđại thừa có hai con đường đi đến giải thoát giác ngộ khác nhau.
(Xem: 1744)
Trong cuộc sống này, ai cũng muốn mình có được một sự nghiệp vẻ vang. Người đời thì có sự nghiệp của thế gian.
(Xem: 1676)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1535)
Nhận thức Phật giáo về chân lý có lẽ là một trong những mối quan tâm hàng đầu với những ai đang nghiên cứu hoặc tìm hiểu đạo Phật.
(Xem: 2709)
Con người sống do và bằng ý nghĩ. Ý nghĩ cao cấp thì cuộc sống trở nên cao cấp; ý nghĩ thấp kém thì cuộc sống thành ra thấp kém.
(Xem: 1655)
Đạo nghiệpsự nghiệp trong đạo. Tuy nhiên cái gì hay thế nào là sự nghiệp trong đạo thì cần phải phân tích cặn kẽ để hiểu đúng và thành tựu đúng như pháp.
(Xem: 1652)
Sự phân biệt, kỳ thị giai cấpvấn đề quan trọng trong lịch sử của nhân loại. Từ xưa đến nay, vấn đề giai cấp vẫn luôn tồn tại.
(Xem: 1457)
Lục Tổ Huệ Năng, từ khi đến học với Ngũ Tổ một thời gian ngắn ngộ được bản tâm, rồi trải qua mười lăm năm với đám thợ săn
(Xem: 1487)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1657)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả vinh hoa phú quý...
(Xem: 1595)
Trong cả Phật giáo Nguyên thủy lẫn Phật giáo Đại thừa đều có tư tưởng về Bồ tát. Các ngài xả thânhạnh nguyện mang lại lợi lạc cho chúng sanh
(Xem: 1481)
Một người đã phát tâm Bồ đề được gọi là một Bồ tát. Đời sống Bồ tát là chiến đấu chống lại sự xấu ác trong lòng người để giải thoát họ khỏi khổ đau.
(Xem: 1473)
Xung đột là một hiện tượng phổ biến. Nó hiện diện khắp mọi ngõ ngách của cuộc sống, từ trong những mối quan hệ ...
(Xem: 1553)
Trong Kinh tạng, khái niệm nghiệp thường được nhắc đến một cách đơn giản và khái quát như nghiệp thiện, ác hoặc nghiệp của thân, miệng, ý.
(Xem: 2248)
Đức Phật Dược sư là một đấng Toàn giác. Để hiểu rõ ngài là ai, bản thể của ngài là gì, vai trò của ngài như thế nào…, trước tiên chúng ta cần hiểu thế nào là một chúng sinh giác ngộ.
(Xem: 1585)
Chơn Thật Ngữ chính là Phật ngữ, là chánh pháp ngữ, là thanh tịnh ngữ vì nó đem lại niềm tin sự hoan hỷ an lạclợi ích chúng sanh.
(Xem: 1558)
Ý thức thì suy nghĩ như thế này, nếu sanh thì không phải là diệt, nếu thường thì không phải là vô thường, nếu một thì không phải khác
(Xem: 1691)
Theo kinh điển Phật giáo, việc lắng nghe chính xác, rõ ràng và đầy đủ là một trong những nền tảng quan trọng để thành tựu trí tuệ.
(Xem: 1898)
Chân lý Phật, vừa giản dị vừa rất thâm sâu. Vì thế, Đức Phật đã mượn những câu chuyện dụ ngôn, gắn với hình ảnh của ...
(Xem: 1568)
Tích Niêm Hoa Vi Tiếu kể rằng một hôm trên núi Linh Thứu, Đức Thế Tôn lặng lẽ đưa lên một cành hoa.
(Xem: 1447)
Kinh Pháp Hoa, hay Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma Puṇḍarīka Sūtra), là một trong những bộ kinh quan trọng
(Xem: 1702)
Khi ánh sao mai vừa tỏ rạng cũng là lúc Đức Phật thành tựu chân lý tối thượng.
(Xem: 1453)
Tất cả các pháp tướng Như hay lìa tướng Như đều không thối chuyển đối với Vô thượng Giác ngộ
(Xem: 1770)
Tất cả chúng sinh mê hoặc điên đảo từ vô thỉ. Nay dùng giác pháp của Phật khai thị, khiến chúng sinh nghe mà ngộ nhập.
(Xem: 2439)
Người tu hành theo Phật Giáo nhắm mục đích là tự mình chứng ngộ và vận dụng cái Tâm đó.
(Xem: 1501)
Về cơ bản, lý duyên khởi giải thoát mô tả tâm lý của thiền, nghĩa là, những gì xảy ra trong tiến trình hành thiền được hành giả trải nghiệm từ lúc đầu cho đến lúc cuối.
(Xem: 2012)
Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.
(Xem: 1730)
Còn gọi là Quy Luật Duyên Khởi, vì đó là lý thuyết về quy luật tự nhiên, quy luật không thuộc về của riêng ai.
(Xem: 1795)
Hình thành tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã phát triển việc truyền bá chánh pháp khắp xứ Ấn Độ và...
(Xem: 1659)
Khi hiểu được việc lành dữ đều có quả báo tương ứng, chỉ khác nhau ở chỗ đến sớm hay muộn mà thôi,
(Xem: 1987)
Tư tưởng chủ đạo của Thuyết nhất thiết Hữu Bộ là: “các pháp ba đời luôn thật có, bản thể luôn thường còn”,
(Xem: 1716)
Xa lìa tà hạnh (không tà dâm) có nghĩa chính yếu là nguyện chung thủy với người bạn đời của mình.
(Xem: 1483)
Người đệ tử Phật thực hành pháp thứ hai một cách hoàn hảo là không trộm cướp, chính xácxa lìa việc lấy của không cho.
(Xem: 1752)
Sau khi phát tâm quy y Tam bảo, người Phật tử được khuyến khích giữ giới (thực hành năm pháp), giới thứ nhất là xa lìa sát sinh.
(Xem: 1613)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá Đạo
(Xem: 1588)
Đứng trước biến động khó khăn của cuộc đời, Phật giáo với tinh thần từ bitrí tuệ, lấy tôn chỉ Phật pháp bất ly thế gian pháp đã
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant