Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chìa Khóa Dẫn Đến Giác Ngộ

08 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 21974)
Chìa Khóa Dẫn Đến Giác Ngộ

CHÌA KHÓA DẪN ĐẾN GIÁC NGỘ
(The Key to Enlightenment)

Thứ hai, ngày 02 tháng 05 năm 1994
Lời khai thị tâm yếu từ Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa đời thứ XII

blankSự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không là điều không thể chắc chắn. Tích cực khai triển trí tuệ thế gian trước khi ta bước trên con đường đạo của sự trải nghiệm thực chứngviệc làm thực tiễn, hữu ích và quan trọng, tuy nhiên chỉ với điều kiện ta đủ sắc bén để không bị ‘lạc đường’ mà điều này thì dĩ nhiên phụ thuộc nơi sức mạnh của nội tâm. Ở đây, tôi dùng từ ‘lạc đường’ để hàm chỉ rằng thông qua trí tuệ thế gian tầm thường ta có thể làm đánh mất Đại Trí Tuệ.

blank
Hình bên phải: Đức Pháp VươngThượng sư của ngài - đại hành giả Yogi Gen Khyentse

Hình bên trái: Ngài Gyalwang Drukpa quang lâm chùa Quang Ân - Hà Nội (ảnh: Tùng Lâm)

Thực tế là tất cả chúng ta đều biết rất nhiều điều về thế giới sự vật hiện tượng và điều đó không hề giúp ích gì cho chúng ta tìm ra con đường chân thật tới giác ngộ. Mà trái lại, nó gây chướng ngại cho trí tuệ chân thực và vì thế, chúng ta lừa dối chính bản thân mình. Những gì mà rất nhiều người trong chúng ta cho là rất có ý nghĩa thì thực tế chúng lại chẳng có ý nghĩa gì, và chúng ta cứ mãi hành động một cách si mê tất cả chỉ vì chúng ta không có chiếc chìa khóa vàng Đại Trí Tuệ.

Có hai loại si mê - si mê về mặt tâm linhsi mê thế gian. Si mê trong tâm linh đơn giản là một sự bám chấp vào cuộc sống, đặc biệt là bám chấm vào những nghi lễ mà không một chút hiểu biết chân thực về ý nghĩa sâu xa của nó. Loại si mê này sẽ tan biến khi bạn khai triển được Đại Trí Tuệ chân thật về những gì mà bạn gắn kết trong quá trình tu tập như bản tôn, các nghi thức, thiền địnhcầu nguyện, v.v…

Sự gắn kết này cũng có thể được gọi là tín tâm chí thành hay đức tin (hay chính tín chứ không phải mê tín, niềm tin mù quáng). Là một hành giả thực hành chính đạo, bạn cần phải có sự hiểu biết tư duy logic và chân thực. Sẽ rất đáng kinh ngạc nếu một ai đó có thể đặt chân bước đi trên con đường đạo pháp với một niềm tin mù quáng. Cho dù không có gì là không thể xảy ra trên thế giới này, điều này là hầu như không thể.

Về tín tâm chí thành dâng hiến, một hành giả cần phải biết phân biệt giữa tín tâm chí thànhái chấp hay sự bám chấp thường tình. Hầu hết chúng ta đều thủ nhiễm ái chấp một cách rất tự nhiên mà không một chút trí tuệ hiểu biết. Nếu con đường giác ngộ chỉ yêu cầu thứ ái chấp này thì tại sao chúng ta đến giờ vẫn chưa giác ngộ? Như đã bàn đến trước đó, tín tâm chí thành dâng hiến là trí tuệ hiểu biết sâu xa không điều kiện. Ví dụ như, nếu một người nào đó hiểu biết về cây tre rằng thân tre rỗng ở bên trong thì dù người khác có cố thuyết phục họ rằng một thân tre nào đó là đặc, không rỗng đâu thì cũng không thể thuyết phục nổi họ.

Vì thế, bạn cần phải thực sự hiểu được sự khác biệt giữa tín tâm dâng hiến và thủ chấp. Để làm được điều này, như đã đề cập tới ở trên, bạn phải có được trí tuệ đúng đắn. Trong tiếng Tạng, trí tuệ này được gọi là ‘sherab’, nghĩa là ‘đại trí’. Trí tuệ ấy siêu việt hơn mọi thứ trí tuệ hiểu biết thông thường khác. Gọi là ‘đại’ vì nó thù thắng hơn sự hiểu biết thế gian của phàm nhân, bởi vì nó có năng lực giúp ta tái sinh vào những cõi giới cao hơn và cuối cùng là vì nó mang lại sự giải thoát tối thượng. Ngoài ra, trí tuệ ấy ‘vĩ đại’ vì nó có năng lực ban mọi điều tốt đẹp của thế gianxuất thế gian.

Nếu bạn thực hành tiệm tu hoặc bằng cách sử dụng thứ trí tuệ siêu việt này như là nền tảng căn bản, hoặc bằng cách xem nó như phần tinh túy bên trong bất khả phân của tín tâm dâng hiến, thì bạn sẽ nuôi dưỡng được tín tâm đúng đắn chân thật dựa trên một nền tảng vững chãi. Thông qua sức mạnh năng lực trưởng dưỡng tín tâm chân thật ấy, một cách tự nhiên vô tác, bạn sẽ khai phát tâm nguyện muốn giải phóng khỏi cỗ máy của luân hồi sinh tử và mong muốn đạt đến sự an lạc thù thắng siêu vượt luân hồi tử sinh. Quan kiến vô biên về thực tại sẽ bừng sáng trong tâm bạn thông qua trưởng dưỡng tín tâm chân thành ấy. Bạn sẽ thực chứng rõ ràng minh xác Đức Thượng Sư, Phật, Pháp, Tăng của chính mình, lý nhân quả, ý nghĩa của kiếp sống quá khứvị lai cũng như trực nhận được rằng vạn pháp đều là thân giác ngộ. Tất cả những âm thanh bạn nghe thấy đều là khẩu giác ngộ và bạn sẽ biết được tâm của người khác như tâm của chính mình vậy. Được truyền cảm hứng từ niềm tin xác quyết rằng trí tuệ bí mật này hiện hữu trong tất cả mọi chúng sinh phàm tình, bạn sẽ phát khởi tâm nguyện thành tựu đại giác ngộ. Đây được gọi là tâm chí thành tín nguyện.

Thủ chấp hoàn toàn đối lập với tâm chí thành tín nguyện. Bạn cần phải quán chiếu tầm quan trọng để không bị lẫn lộn mịt mờ.

Bạn cũng cần phải soi xét tìm hiểu xem mục đích đến với đạo pháp của mình là gì. Thực hành đạo vì mục đích mưu cầu hạnh phúc cho đời này và để được tái sinh vào cảnh giới cao hơn được gọi là sơ tín tâm. Tuy nhiên, một số Phật tử trong xã hội hiện đại ngày nay xem đây là tín tâm chân thànhtín tâm khởi phát nơi mỗi người có thể là ngụy tạo và duy ý chí.

Nếu bạn thực hành Phật Pháp với tâm nguyện muốn giải thoát mình khỏi luôn hồi thì đó gọi là trung tín tâm.

Nếu phát tâm thực hành đạo pháp không chỉ vì lợi ích giải thoát khỏi luân hồi của riêng mình mà còn thành tâm mong muốn giải thoát hết thảy chúng sinh khỏi luân hồithiết lập họ trong đại giải thoát vô thượng thì đây gọi là thượng tín tâm. Sự tín tâm này được thực hành chủ yếu dựa trên tâm từ bi. Sẽ khá là khó khăn nếu trưởng dưỡng lòng tín tâm thượng đẳng này mà không có sự hỗ trợ của tình yêu thươnglòng bi mẫn, cho dù thậm chí nếu nó có thể được dựa trên nền tảng trí tuệ đã được khai triển ở một mức độ nhất định.

Bàn về tín tâm dâng hiến, tôi cho rằng những hành động như ‘ngước mắt sùng bái’ hay chảy nước mắt xúc động trước một bài pháp là rất không phù hợp bởi lẽ đó đơn thuần chỉ là những cảm xúc bột phát của một sự xả ly giả tạo. Phản ứng này giống như bông hoa khô héo vào buổi cuối thu vậy. Tín tâm dâng hiến chân thật là thứ trí tuệ tôn quý hợp nhất của tín tâm, tinh tiến, trí tuệ và hạnh xả ly.

Đặc biệt là trong mối liên kết thượng sưđệ tử, tôi chẳng thấy ở đó bất kỳ một ý nghĩa nào trừ phi mối quan hệ ấy được truyền cảm hứng từ tâm xả ly mạnh mẽ của đại trí tuệ trân quý. Mọi người theo đuổi nó rất nghiêm chỉnh nhưng thực sự giống như họ đang chơi trò xây lâu đài bằng cát của trẻ con vậy. Những người thày và đệ tử như thế thật đáng chê cười. Mối quan hệ của họ được gắn kết với nhau bằng một sự dính chấp mạnh mẽ ngụy trang dưới vỏ bọc của tín tâm nhưng lại không có sự xả ly trong đó.

Một hành giả phải có ít nhất là sơ tín tâm như giảng giải ở trên. Dường như những người đệ tử thời nay không chịu trưởng dưỡngtín tâm cũng như chẳng tìm thấy lý do gì để dự phần vào mối liên kết thày trò ngoại trừ họ tự mắc bẫy chính mình với tâm bám chấp và ái nhiễm, giống như loài thú đói khát hau háu tìm miếng mồi ngon vậy, và họ sẽ chỉ chuốc lấy khổ đau và lừa dối lẫn nhau mà thôi.

Tựu chung, một cảm giác an lạc trong sáng tự nhiên hiện khởi khi bạn hiểu được những nguyên nhân căn bản dẫn bạn đến với đạo pháp, rồi sau đó lắng nghe, tìm hiểu và ghi nhớ những phẩm tính giác ngộ. Đây được gọi là tín tâm chí thành minh quang (đức tin chân thật).

Sự khác biệt giữa chính tín tâm này với dục lạc đến từ thủ chấp rất vi tế cho nên rất khó phân biệt chúng. Câu kệ dưới đây trích từ một trong những bài ca của Đức Jetsun Milarepa vô song có lẽ sẽ giúp ta phân biệt được sự khác biệt:

Ngươi, giống như loài cá,
Tín tâm càng nhiều
Con nước càng sâu hơn,
Còn ta, hành giả yogi
Mang lòng sùng kính trong tâm.

Tín tâm của một hành giả yogi sẽ bất động không đổi thay trước những khó khăn dù là khắc nghiệt nhất. Nó không phụ thuộc vào hoàn cảnh thuận hay nghịch. Cho nên tôi thiết nghĩ các bạn cũng có thể phân biệt được theo cách này.

Ha! Ha! Hãy kiểm chứng xem điều này đúng hay không!
Hi! Hi! Như Đức Phật Thích Ca đã dạy:
Tựa như vàng phải dùng lừa để thử,

Cắt, mài và dũa,

Hãy kiểm chứng chân lý

Đừng vội chấp nhận chỉ vì lòng tôn kính.

Vì thế, bạn có quyền được kiểm chứng chiêm nghiệm.

Người thày ít nhất phải là người có sự trải nghiệm thực chứng trong tu tập thực hành, có những phẩm hạnh hoàn hảo rõ ràng không lầm lẫn như tín tâm chí thành và những phẩm chất khác mà tôi đã đề đề cập đến ở trên về những tiêu chí yêu cầu đối với người đệ tử. Chắc chắn không phải là người thày không cần tuân theo những quy tắc còn người đệ tử thì bị buộc phải kinh qua những thử thách gam go. Vai trò trách nhiệm của người thày phải là nhấn mạnh được tầm quan trọng của sự gắn kết với Phật đạo (chứ không phải là với tích cách của người thày). Trong khi nhất tâm hướng về Phật đạo một cách đúng pháp vì lợi ích tha nhân, người thày cũng đồng thời bảo hộ chăm lo cho những người đệ tử bắt đầu bước trên con đường đạo. Dẫn dắt đệ tử trên con đường tu Phậtnhiêu ích tha nhânmục đích chính yếu của thực hành Phật đạo. Nếu không làm lợi ích cho hữu tình thì toàn bộ sự nghiệp tu hành Phật Pháp mất đi mục đích đích thực của nó.

Đức Jetsun Milarepa đã hát rằng:

điên đảo nếu một người dẫn dắt những người khác ra khỏi luân hồi trong khi bản thân họ còn chưa đáo bỉ ngạn. Cũng giống như một người đuối nước mà lại cố sức giải cứu mình bằng cách túm lấy một kẻ chết đuối khác vậy’.

Theo cách này, mọi nỗ lực chắc chắn đều tan thành mây khói. Mục đích ý nghĩa chân thực của đời này và các kiếp vị lai đều là uổng phí, bản thân mình và tha nhân đều chuốc lấy khổ đau mà thôi.

Tôi, Drukpa đời thứ XII, tên thường gọi đơn giản là ‘Padma’, vì không thể khước từ lời cầu pháp chân thành của bạn hữu nên viết bài pháp này với mong nguyện nhỏ nhiệm thôi là có thể đem lại lợi ích cho tha nhân.

Nguồn/Source: The Key to Enlightenment (www.drukpa.com)


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1382)
Trong bài Kinh Devadaha, Đức Phật đã luận giải chi tiết về nghiệp. Trái ngược với quan điểm cho rằng nghiệp là định mệnh luận,
(Xem: 1292)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1347)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
(Xem: 1579)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
(Xem: 1719)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1679)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 1070)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1552)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1548)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1720)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 1985)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1589)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1413)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1427)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1611)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1190)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1320)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1339)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1737)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1695)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 3090)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1878)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1416)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1256)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1340)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1462)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1356)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1957)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1733)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1940)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1869)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2433)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1827)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2189)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2302)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2361)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1893)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 2022)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 2077)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 2021)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 2648)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1992)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1941)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1994)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1956)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2217)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2367)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 2060)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2179)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1940)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1974)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2470)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2376)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 4122)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2538)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3264)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2514)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2095)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1837)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant