Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chân Như

Thursday, December 22, 202213:02(View: 413)
Chân Như

CHÂN NHƯ

Nguyễn Thế Đăng

 
sen 6



Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.

Quá trình học và hành được đi theo thứ tự trong các kinh là như sau. Trước tiên, nghe, đọc, học, nghiên cứu gọi là VănTiếp theo là suy nghĩtư duybiện luận là . Và cuối cùng đưa vào thực hành gọi là Tu. Chính trong quá trình thực hành (Tu) này, người ta có những bước nhảy vượt khỏi ý thức lý luận vào Thật tướng Bát nhã.

Phẩm Đại Như này tương đương với hai phẩm Chân Như và Như Lai thứ 15, Hội thứ 5, Kinh Đại Bát nhã ba la mật đa 600 quyển do Pháp sư Huyền Trang dịch. Và cũng tương đương với phẩm Chân Như thứ 16 của Kinh Phật Mẫu xuất sinh tam pháp tạng Bát nhã ba la mật đa do Pháp sư Thi Hộ dịch.

Chữ Như trong Kinh Đại Bát nhã của ngài Cưu Ma La Thập thì được ngài Thi Hộ và ngài Huyền Trang dịch là Chân Như. Chẳng hạn phẩm Đại Như được dịch là phẩm Chân Như. Một thí dụ khác, “Như Lai tướng Như tức là tất cả pháp tướng Như” được dịch là, “Như Lai Chân Như, tất cả pháp Chân Như, cùng một Chân Như, không hai, không khác”. Như thế bởi vì tathata có nghĩa là Như, tướng Như, tánh Như, Chân Như.

Phẩm Đại Như bắt đầu bằng:

Chư Thiên cõi Dục, cõi Sắc rải hương bột chiên đàn và hoa sen xanh, đỏ, hồng, trắng cúng dường Đức Phật rồi đảnh lễ mà thưa rằng: Giác ngộ vô thượng của chư Phật rất sâu thẳm, khó thấy, khó hiểu, chẳng thể suy nghĩ mà biết được, là vi diệu tịch diệt, chỉ bậc trí mới biết được, ngoài ra tất cả thế gian chẳng thể tin. Vì sao thế? Vì trong Bát nhã ba la mật sâu xa nói thế này: Sắc tức là Bát nhã ba la mậtBát nhã ba la mật tức là sắc, cho đến nhất thiết chủng trí tức là Bát nhã ba la mậtBát nhã ba la mật tức là nhất thiết chủng tríSắc tướng Như, Bát nhã ba la mật tướng Như là một Như, không hai không khác. Cho đến nhất thiết chủng trí tướng Như, Bát nhã ba la mật tướng Như, là một Như, không hai, không khác.

Đức Phật dạy: Đúng như vậy. Này các Thiên tử! Sắc tức là Bát nhã ba la mậtBát nhã ba la mật tức là sắc. Cho đến nhất thiết chủng trí là Bát nhã ba la mậtBát nhã ba la mật là nhất thiết chủng trí.

Sắc tướng Như, cho đến Nhất thiết chủng trí tướng Như là một Như, không hai không khác” (Phẩm Đại Như thứ 54).

Bát nhã ba la mật là trí huệ thấu suốt rốt ráo tướng Như hay Chân Như của sắc thọ tưởng hành thức. Tướng Như hay Chân Như được Phật nói ngay sau đoạn trên:

Đây gọi là tướng rất sâu của các pháp, chính là không có hai pháp. Ví như hư không rất sâu thẳm nên pháp này rất sâu thẳm, vì Như rất sâu thẳm nên pháp này rất sâu thẳm, vì pháp tánhthật tế rất sâu thẳm, không thể nghĩ bàn, vô biên nên pháp này rất sâu thẳm. Vì không đến không đi rất sâu thẳm nên pháp này rất sâu thẳm, vì chẳng sanh chẳng diệt, không dơ không sạch, không trí không đắc rất sâu thẳm nên pháp này rất sâu thẳm”.

Tướng Như hay Chân Như là pháp tánhbản tánh của mọi sự. Chân Như hay pháp tánhthật tế sâu thẳm vì chỉ có trí huệ Bát nhã sâu thẳm (ba la mật) mới thấy biết được. Và Chân Như đồng nhất với tánh Không, “không đến không đi, chẳng sanh chẳng diệt, không dơ không sạch, không trí không đắc”.

Chân Như là chân lý tuyệt đối, là thực tại tuyệt đối, vượt ngoài - nghĩa là không ô nhiễm bởi - sự đến đi, sanh diệt, dơ sạch, trí đắc của không gian và thời gian. Như thế, Chân Như là “Pháp thân của tất cả chư Phật”.

Ngài Tu Bồ Đề nói: Này các Thiên tử! Các ngài nói Tu Bồ Đề là Phật tử, tùy Phật sanh, thế nào là tùy Phật sanh?

Vì tướng Như nên Tu Bồ Đề tùy Phật sanh. Tại sao thế? Vì Như Lai tướng Như chẳng đến chẳng đi, Tu Bồ Đề tướng Như cũng chẳng đến chẳng đi, thế nên Tu Bồ Đề là tùy Phật sanh.

Lại nữa, Tu Bồ Đề từ xưa đến nay vẫn tùy Phật sanh. Vì sao thế? Vì Như Lai tướng Như tức là tất cả pháp tướng Như, tất cả pháp tướng Như tức là Như Lai tướng Như. Trong tướng Như này cũng không có tướng Như, thế nên Tu Bồ Đề là tùy Phật sanh”.

Như Lai là tướng Như, chẳng đến chẳng đi, Tu Bồ Đề là tướng Như, cũng chẳng đến chẳng đi. Như Lai và Tu Bồ Đề đồng một tướng Như, đồng một Chân NhưChân Như là thật tướng của Như Lai và của Tu Bồ Đề. Thấy được thật tướng Chân Như của Như Lai và của Tu Bồ Đề nên ngài Tu Bồ Đề giải thoát, là vị A La Hán. Ngài thấy biết Chân Như của tất cả các pháp, của chính mình và của Như Lai, nên ngài sanh ra từ Chân Như, tùy Chân Như sanh. Tùy Chân Như sanh là “tùy Phật sanh”, như thế, Chân Như chính là Phật.

Hơn thế nữa, “Như Lai là tướng Như tức là tất cả pháp là tướng Như, tướng Như này cũng không có tướng”, nghĩa là tất cả các bậc giác ngộ, tất cả các vị thánh và tất cả các chúng sanh, tất cả các pháp hiện hữu đồng một Chân Như. Tất cả thánh phàm, tất cả thế giới là Chân Như, đây là các thấy biết rốt ráo của Phật, thế giới chúng sanh sanh tử không còn, chỉ có Niết bàn một vị Chân Như.

Tham thiền (contemplate) về Chân Như để tương ưng, thấy được phần nào thực tại Chân Như và an trụ trong đó để tất cả trở lại thành Chân Như, đây là con đường giải thoát giác ngộ của đạo Phật.

“Như Lai Chân Như tức là tất cả pháp Chân Như”. Tất cả mọi pháp hiện hữu là Chân Nhưthật tướng của tất cả các pháp thế gian là Chân Như. Thấy như vậy là đang đi trên con đường giải thoát giác ngộ. Không thấy được như vậy thì vẫn đi trên con đường thế gian sanh tử.

Chúng ta không thấy tướng Như hay Chân Như của tất cả hiện tượng, của tất cả pháp mà thấy những sự vật riêng lẻ tách biệt nhau. Đó là do tâm phân biệt chia tách thực tại thành những phần mảnh tách biệt từ đó các phiền não tham, sân, si, kiêu mạn, đố kỵ… tha hồ sanh khởithao túng toàn bộ cuộc đời chúng ta.

Để có được sự hài hòa, hợp nhất với thế giới, với người khác, chúng ta phải thấy thật tướng Chân Như của tất cả mọi sự. Để tiếp xúc, thấy được phần nào thực tại Chân Nhưđạo Phật dạy chúng ta ba pháp tịnh hóa tâm là Thiền định (Chỉ), Thiền quán (Quán) và Thiền định Thiền quán đồng thời (Chỉ Quán đồng thời). Ngoài ra các hành động (Hạnh) trong đời sống hàng ngày cũng phải tìm cách tương ưng, hòa điệu với Chân Như.

Lại nữa, Như Lai tướng Như là tướng thường trụTu Bồ Đề tướng Như cũng là tướng thường trụNhư Lai tướng Như không hai, không khác, Tu Bồ Đề tướng Như cũng không hai, không khác. Thế nên Tu Bồ Đề là tùy Phật sanh. Như Lai tướng Như không có chỗ ngại, tất cả pháp tướng Như cũng không có chỗ ngại, đây là Như Lai tướng Như cùng tất cả pháp tướng Như là một Như, không hai, không khác. Tướng Như này vô tác, trọn chẳng có gì chẳng Như, nên tướng Như này là Như duy nhất, không hai không khác. Thế nên Tu Bồ Đề là tùy Phật sanh.

Như Lai tướng Như tất cả chỗ vô niệm, vô biệt. Tu Bồ Đề tướng Như cũng tất cả chỗ vô niệm, vô biệt. Như Lai tướng Như không hai, không khác, chẳng thể đắc. Tu Bồ Đề tướng Như cũng như vậy, thế nên Tu Bồ Đề là tùy Phật sanh.

Như Lai tướng Như chẳng xa lìa các pháp tướng Như, tướng Như này trọn không có gì chẳng Như. Vì Như chẳng khác nên Tu Bồ Đề là tùy Phật sanh, mà cũng không chỗ tùy”.

Tướng Như hay Chân Như là “thường trụ, vô tác (không do ai hay cái gì làm ra), vô niệm, (không có các khái niệm phân biệt hư vọng), vô biệt (không khác biệt ở bất cứ nơi đâu, bất cứ thời gian nào) và chưa bao giờ xa lìa các pháp, các hiện tượng”. Rõ ràng và trực tiếp hơn nữa là “trọn không có gì chẳng Như”, không có cái gì chẳng phải là Chân Như, mắt thấy gì thì cái đó là Chân Như, tai nghe tiếng gì thì tiếng đó là Chân Như… Chân Như này không do ý nghĩ tạo tác (vô tác), không có khái niệm phân biệt (vô niệm), không có sự khác biệt do ý thức tạo thành (vô biệt), và đó là cái thường trụ không biến đổi từ vô thủy đến vô chung. Thiền định thiền quán về Chân Như như vậy dần dần người ta sẽ cảm nhận, tiếp xúc, thấy được một cách sơ khởi Chân Như. Khi đã thật thấy một cách trực tiếp, người ta an trụ vào thực tại Chân Như ấy và dần dần tiến lên các địa.

Lại nữa Như Lai tướng Như chẳng quá khứ, chẳng vị lai, chẳng hiện tại, các pháp tướng Như cũng chẳng quá khứ, chẳng vị lai, chẳng hiện tại, thế nên Tu Bồ Đề là tùy Phật sanh.

Lại nữa Như Lai Như chẳng ở trong quá khứ Như, chẳng ở trong vị lai Như, chẳng ở trong hiện tại Như. Quá khứ Như, vị lai Như, hiện tại Như cũng chẳng ở trong Như Lai Như, là một Như, không hai, không khác.

Sắc Như, thọ tưởng hành thức Như, Như Lai Như là một Như, không hai không khác.

Ngã Như cho đến tri giả Như, kiến giả Như, Như Lai Như là một Như, không hai không khác. Bố thí ba la mật Như cho đến Bát nhã ba la mật Như, Nội Không Như cho đến Vô pháp hữu pháp Không Như, bốn niệm xứ Như cho đến Nhất thiết chủng trí Như, Như Lai Như là một Như, không hai không khác.

Đại bồ tát do được Như ấy nên gọi là Như Lai”.

Trong Như Lai hay Chân Như không có quá khứvị laihiện tại, chỉ là một Như, không hai, không khác. Thấy có hai, có khác là do vô minh phân biệt hư vọng tạo thành, và thời gian và không gian có hai có khác từ cái thấy hư vọng ấy sanh ra.

“Sắc Như, thọ tưởng hành thức Như, Như Lai Như là một Như, không hai không khác”: tất cả những cái tạo lập ra thế giớichúng sanh, trong thật tướng, chúng đều là Như, không hai không khác.

Cho đến Phật pháp, cái giải thoát cho chúng sanh, từ “Bố thí ba la mật, mười sáu cái Không, bốn niệm xứcho đến Nhất thiết chủng trí và Như Lai Như là một Như, không hai không khác”. Tất cả các pháp thực hành cho đến trí huệ viên mãn đều là một Như, cho nên ngay nơi một pháp môn người ta có thể thấy biết bản tánh, nền tảng của pháp môn ấy là Chân Như.

Các pháp môn là một Như, là sự biểu lộ của một Như, tất cả các pháp môn có cùng một bản tánh, một nền tảng Chân Như, nên nếu có sự đốn tiệm, nhanh chậm là do duyên nghiệp của từng người.

Cái thấy biết của giác ngộ là hoàn toàn thấy tất cả thế gian và xuất thế gian là Chân Như. Thấy biết, chứng đắc hoàn toàn Chân Như thì được gọi là Như Lai.

Khi ngài Tu Bồ Đề nói phẩm Tướng Như này, cõi Đại thiên thế giới này chấn động sáu cách. Chư Thiên, cõi Dục cõi Sắc dùng bột hương chiên đàn rải trên Đức Phật và Tu Bồ Đề và tán thán ‘Thật là chưa từng có. Ngài Tu Bồ Đề do Như Lai Như mà tùy Phật sanh’.

Ngài Tu Bồ Đề lại nói với chư Thiên: “Này các Thiên tử! Tu Bồ Đề chẳng từ nơi sắc mà tùy Phật sanh, cũng chẳng từ nơi sắc Như mà tùy Phật sanh. Chẳng lìa sắc mà tùy Phật sanh, cũng chẳng lìa sắc Như mà tùy Phật sanh. Cho đến Tu Bồ Đề chẳng từ nơi nhất thiết chủng trí mà tùy Phật sanh, cũng chẳng từ nơi nhất thiết chủng trí Như mà tùy Phật sanh, chẳng lìa nhất thiết chủng trí mà tùy Phật sanh, cũng chẳng lìa nhất thiết chủng trí Như mà tùy Phật sanh. Tu Bồ Đề chẳng từ nơi vô vi mà tùy Phật sanh, cũng chẳng từ nơi vô vi Như mà tùy Phật sanh, chẳng lìa vô vi mà tùy Phật sanh, cũng chẳng lìa vô vi Như mà tùy Phật sanh.

Vì sao thế? Vì tất cả pháp đều là vô sở hữubất khả đắc, không có người tùy sanh, cũng không có pháp để tùy sanh”.

Ngài Tu Bồ Đề chẳng từ nơi sắc, sắc Như cho đến chẳng từ vô vivô vi Như mà cũng chẳng lìa sắc, sắc Như, cho đến chẳng lìa vô vivô vi Như mà tùy Phật sanh. Rốt ráo ngài Tu Bồ Đề là vô sanh, không từ đâu sanh mà cũng chẳng lìa đâu sanh. Thế nên kinh nói, “không có người tùy sanh, cũng không có pháp để tùy sanh”.

Vì tất cả pháp đều là vô sở hữu (không chỗ có), bất khả đắc (không thể đắc) đều là Như. Một nghĩa của vô sở hữubất khả đắc là, theo KinLăng Già, vượt khỏi tâm, ý, ý thức. Tâm, ý, ý thức chỉ có thể nắm lấy tướng, chỉ có thể biết “từ nơi” hoặc “lìa khỏi” nên không thể thấu rõ cái vốn là vô sở hữubất khả đắc, tức là Chân Như.

Ngài Tu Bồ Đề nói đoạn cuối này để xóa sạch những khái niệm dù cao siêu nhất còn vướng vất trong tâm, ý, ý thức của người nghe để đưa đến giải thoát rốt ráo.

Lúc bấy giờ ngài Xá Lợi Phất bạch Phật. Bạch Thế Tôn! Như ấy chân thật chẳng hư. Pháp tướngpháp trụpháp vị rất sâu thẳm. Trong đây, sắc không thể đắc, sắc Như không thể đắc. Vì sao thế? Vì sắc còn không thể đắc, huống gì sắc Như mà lại có thể đắc.

Cho đến nhất thiết chủng trí không thể đắc, nhất thiết chủng trí Như không thể đắc. Vì sao thế? Vì nhất thiết chủng trí còn không thể đắc, huống gì nhất thiết chủng trí Như mà lại có thể đắc.

Phật bảo Xá Lợi Phất: Đúng như vậy. Xá Lợi Phất! Như ấy chân thật chẳng hư. Pháp tướngpháp trụpháp vị rất sâu thẳm. Trong đây, sắc cho đến nhất thiết chủng trí đều không thể đắc, sắc Như cho đến nhất thiết chủng trí Như đều không thể đắc. Vì sao thế? Vì sắc cho đến nhất thiết chủng trí còn không thể đắc, huống gì sắc Như cho đến nhất thiết chủng trí Như mà lại có thể đắc.

Lúc ngài Xá Lợi Phất nói tướng Như ấy, trong pháp hội có hai trăm Tỳ kheo vì chẳng thọ tất cả pháp nên được hết phiền nãochứng quả A La Hán. Năm trăm Tỳ kheo ni xa lìa trần cấu, được pháp nhãn thanh tịnh. Năm ngàn Đại Bồ tát được vô sanh pháp nhẫn. Sáu ngàn Bồ tát vì chẳng lãnh thọ tất cả pháp nên sạch hết phiền não, tâm được giải thoát thành A La Hán”.

Phẩm này bắt đầu bằng những lời giảng của các Thiên tử, rồi lời dạy của Đức Phật và lời giảng “Tu Bồ Đề là tùy Phật sanh” của ngài Tu Bồ Đề. Sau cùng là lời của ngài Xá Lợi Phất và kết luận “Đúng như vậy” của Đức PhậtCuối cùng là những chứng đắc của các bậc thánh, ít nhất là “đắc pháp nhãn tịnh”, cao nhất là đắc quả A La Hán và Vô sanh pháp nhẫn của các Đại Bồ tát.

Ban đầu kinh nói, “sắc tướng Như cho đến nhất thiết chủng trí tướng Như là một Như, không hai không khác”, cuối cùng Kinh nói, “sắc Như cho đến nhất thiết chủng trí Như đều không thể đắc”.

Tại sao thế?

Ban đầu, với người bắt đầu thực hành thì Như là một khái niệm được hình dung bởi ngôn ngữ, chưa phải là một thực tại mà Kinh nói là “Như ấy chân thật chẳng hư, pháp tướngpháp trụpháp vị rất sâu thẳm”. Khái niệm ấy là những chỉ đường cho tâm, ý, ý thức đi dần đến và thể nhập Chân NhưThể nhập Chân Như là hòa hợp với Chân Như để được gọi là từ Chân Như sanh, tùy Phật sanh. Nhưng cuối cùng khi thực tại Chân Như đã được thấy rõ, được chứng ngộ thì những khái niệm ban đầu không còn cần thiết, có khi lại gây vướng mắc vi tế, nên Kinh kết luận, “sắc cho đến nhất thiết chủng trí còn không thể đắc, huống gì sắc Như cho đến nhất thiết chủng trí Như mà có thể đắc”.

Khi Kinh nói, “Như ấy chân thật không hư”, nghĩa là chỉ có Như, Chân Như, ngoài Như ấy không có thế gian sanh tử (sắc thọ tưởng hành thứccho đến các pháp xuất thế gian (bố thí ba la mật, mười sáu cái Không, bốn niệm xứcho đến nhất thiết chủng trí).

Tất cả chỉ là “Một Như, không hai, không khác”. 

Send comment
Off
Telex
VNI
Your Name
Your email address
)
(View: 2288)
Trong Nguồn thiền, Tổ Khuê Phong Tông Mật nói: “Người ngộ ngã pháp đều không, hiện bày chân lý mà tu là thiền Đại thừa”.
(View: 2526)
Trong Kinh Văn Thù quyển hạ có chép: Ngài Văn Thù thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn thì đệ tử của Ngài phân hóa bộ phái như thế nào?
(View: 3503)
Vấn đề Nam tôngBắc tông là một vấn đề tương đối rất cũ – cũ đến hơn một ngàn năm trăm năm kể từ ngày con người có được cái hạnh phúc biết đến giáo pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
(View: 2866)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”
(View: 3821)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(View: 2893)
Mất 11 năm khổ công tầm đạo, Đức Phật Thích Ca đã đạt đại giác ngộ sau 49 ngày quyết tâm thiền định dưới cội cây bồ đề.
(View: 2091)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”...
(View: 2793)
Một người không có trí nhớ, hoặc mất trí nhớ, cuộc đời người ấy sẽ ra sao?
(View: 2931)
Chí đạo vốn ở tâm mình. Tâm pháp vốn ở vô trụ. Tâm thể vô trụ, tánh tướng tịch nhiên, chẳng phải có chẳng phải không, chẳng sanh chẳng diệt.
(View: 2241)
Trước khi nhập Niết-bàn, đức Phậtdi giáo tối hậu cho các chúng đệ tử: “Pháp và Luật mà Ta đã thuyết và qui định, là Đạo Sư của các ngươi sau khi Ta diệt độ.”
(View: 2640)
Phật giáo là một tổ chức cộng đồng (Samasambhaga) ra đời sớm nhất trong lịch sử nhân loại (-5 CN).
(View: 3581)
Đức Phật, một nhân vật lịch sử 3000 năm về trước, ra đời tại Bắc Ấn, là bậc giác ngộ toàn triệt, là bậc đạo sư với nghi biểu đặc biệt xuất hiện ở đời.
(View: 2859)
Con người sanh ra để hưởng thụ qua lục dục như tài, sắc, danh, thực, thùy (Ngủ nghỉ), .v.v. Con người trải qua một chu kỳ già, bệnh và cuối cùng là chết.
(View: 1484)
Nguyên bản: Teachings On The Eight Verses On Training The Mind. Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma . Anh dịch: Thupten Jinpa. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(View: 1736)
Phật tánh với thành Phật là hai vấn đề khác nhau, không thể đồng nhất được.
(View: 2082)
Kinh Tiểu Duyên (Aggaññasutta) trong tiếng Pali có nghĩa là kinh nói về nguyên nhân hay bài giảng về khởi nguyên các pháp.....
(View: 1779)
Đức Phật đã dạy về những sự thật này ngay khi ngài đạt đến Giác Ngộ như một phần của những gì được biết như Chuyển Pháp Luân Lần Thứ Nhất.
(View: 3579)
“Thiên đường có lối sao chẳng đi Địa ngục không cửa dấn thân vào”
(View: 3965)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(View: 1820)
Kính lễ đạo sư và đấng bảo hộ của chúng con, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát! Sự thông tuệ của ngài chiếu soi như mặt trời, không bị che mờ bởi vọng tưởng hay dấu vết của si mê,
(View: 3551)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm
(View: 1955)
Trong phẩm Ứng Tận Hoàn Nguyên kinh Đại Bát Niết Bàn, nói về sự nhập Niết bàn của Đức Phật.
(View: 2211)
Trong số các vị Tổ sư của Thiền phái Vô Ngôn Thông, Viên Chiếu được xem là vị Thiền sư danh tiếng, lỗi lạc bậc nhất.
(View: 3272)
Nguyên tử giải phóng trở thành nguyên tử năng là đánh dấu thời đại đại phát minh của nhân loại. Là họa hay là phước tạm thời không bàn luận đến.
(View: 3899)
Luân hồinhân quả là hai sự kiện tương quan. Bởi chúng sanh còn nghiệp trái của nhân quả thiện ác nên mới bị luân hồi.
(View: 3467)
“Tướng” là cái gì? “Tướng” chính là tướng trạng của sự vật biểu hiện nơi ngoài và tưởng tượng ở nơi trong tâm chúng ta.
(View: 2135)
Kính Pháp Sư Hiền Đức, tôi là một tu sĩ đạo hiệu Thích Thắng Hoan có vài lời tâm niệm gởi đến Pháp Sư, một hôm tôi đến chùa...
(View: 3662)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(View: 3365)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(View: 5092)
Mùa xuân là dịp để trở về, dừng bước chân hoằng hóa để quán chiếu mọi nhân duyên giữa đời.
(View: 2805)
Bản Pháp văn mà tôi giới thiệu ở đây, không phải là toàn văn được in trên giấy, mà chỉ là một phần gọn nhẹ và cô đọng, cắt bớt những giới luật khá khắt khe khó tiếp cận với người Tây phương, nên giản dị và dễ đi vào lòng người.
(View: 3049)
Trước đây rất lâu từ những năm 1930, người ta đã chất vấn, phê phán rằng những người theo Phật giáo không biết làm giàu.
(View: 4988)
Trong không gian mênh mông của vườn kinh điển Đại Thừa, Diệu Pháp Liên Hoa là đoá hoa vi diệu nhất mà chính Đức Thế Tôn đã ca ngợi
(View: 4493)
Trong cuộc sống, nếu một người mất đi niềm tin sẽ trở nên vị kỷ, bất cần và gặt hái khổ đau, dễ dàng bị tác động vào những...
(View: 3093)
Đức Phật đã dạy: "Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh." Tất cả mọi loài, ai cũng có cái tánh làm Phật. Mình hiểu lời Phật dạy một cách nôn na như vậy.
(View: 26619)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(View: 2230)
Ngày nay, vấn đề kỳ thị chủng tộc, giai cấp, giới tính được con người quan tâmtranh đấu quyết liệt hơn bao giờ hết.
(View: 3074)
Phật tánhthực tại tối hậu của chúng sanh và các bậc giác ngộ. Kinh Đại Bát Niết Bàn đã dùng nhiều từ để chỉ Phật tánh này
(View: 3808)
Kinh Biệt Giải Thoát Giới - tên gọi khác của Kinh Tư Lượng (Anumāna Sutta) - là bài kinh thứ mười lăm trong Majjhima Nikāya
(View: 2018)
Trong suốt hai ngàn năm lịch sử, đạo Phật luôn luôn có mặt trong lòng dân tộc Việt Nam khắp nẻo đường đất nước và gắn bó với dân tộc Việt Nam trong mọi thăng trầm vinh nhục.
(View: 2845)
Có nhiều bài kệ rất hay khi xướng lên hay khi tán tụng; hoặc giả khi mạn đàm Phật Pháp; nhưng cũng có lắm bài kệ...
(View: 2487)
Từ nhỏ, lúc mới vào chùa khi 15 tuổi của năm 1964 và năm nay 2020 cũng đã trên 70 tuổi đời và hơn 55 năm sống trong Thiền Môn
(View: 5306)
Duy Thức Học được gọi là môn triết họcmôn học này nhằm khai triển tận cùng nguyên lý của vạn hữu vũ trụ nhân sanh mà vạn hữu vũ trụ nhân sanh...
(View: 2047)
Vấn đề thế giới địa ngụcvấn đề rất nhiều nghi vấn, những người theo đạo Phật thì tin có thế giới địa ngục, những người không theo đạo Phật thì không tin có thế giới địa ngục và có một hạng người thì nửa tin nửa ngờ.
(View: 2451)
Vấn đề tụng niệm một số người không nắm được giá trịnghĩa lý của nó nên có thái độ khinh thường, xem nhẹ, không quan tâm, không chú trọng cho việc làm này...
(View: 3125)
Phật tại thế thời ngã trầm luân, Kim đắc nhân thân Phật diệt độ, Áo não tự thân đa nghiệp chướng, Bất kiến Như Lai kim sắc thân.
(View: 2195)
Có những bài tán nghe qua là hiểu liền nội dung; nhưng cũng có những bài tán rất khó hiểu, không biết lý do vì sao? Trong đó có bài tán “Chiên Đàn” là một.
(View: 5071)
“Thừa Tự”, theo quan niệm phong kiến xưa, có nghĩa là thọ hưởng của “hương hỏa” với trách nhiệm nối dõi việc thờ cúng Tổ tiên.
(View: 3527)
Nhà nghiên cứu phật học K.SCHMIDT1 đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và của Phật học,
(View: 3405)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(View: 5140)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(View: 2177)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(View: 8940)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(View: 2836)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(View: 2664)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
(View: 3073)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(View: 2536)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(View: 3783)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(View: 4517)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(View: 2805)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
AZCPOS - Order online directly to POS system
Thầy THÍCH PHÁP HÒA sẽ có buổi thuyết pháp tại chùa Bảo Quang vào thứ bẩy ngày 22 tháng 4 năm 2023, lúc 2 giờ chiều