Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chân Như

22 Tháng Mười Hai 202213:02(Xem: 1828)
Chân Như

CHÂN NHƯ

Nguyễn Thế Đăng

 
sen 6



Trong bài này sẽ trích vài đoạn kinh của Kinh Ma ha Bát nhã ba la mật, phẩm Đại Như thứ 54, do Pháp sư Cu Ma La Thập dịch để tìm hiểu về Chân Như.

Quá trình học và hành được đi theo thứ tự trong các kinh là như sau. Trước tiên, nghe, đọc, học, nghiên cứu gọi là VănTiếp theo là suy nghĩtư duybiện luận là . Và cuối cùng đưa vào thực hành gọi là Tu. Chính trong quá trình thực hành (Tu) này, người ta có những bước nhảy vượt khỏi ý thức lý luận vào Thật tướng Bát nhã.

Phẩm Đại Như này tương đương với hai phẩm Chân Như và Như Lai thứ 15, Hội thứ 5, Kinh Đại Bát nhã ba la mật đa 600 quyển do Pháp sư Huyền Trang dịch. Và cũng tương đương với phẩm Chân Như thứ 16 của Kinh Phật Mẫu xuất sinh tam pháp tạng Bát nhã ba la mật đa do Pháp sư Thi Hộ dịch.

Chữ Như trong Kinh Đại Bát nhã của ngài Cưu Ma La Thập thì được ngài Thi Hộ và ngài Huyền Trang dịch là Chân Như. Chẳng hạn phẩm Đại Như được dịch là phẩm Chân Như. Một thí dụ khác, “Như Lai tướng Như tức là tất cả pháp tướng Như” được dịch là, “Như Lai Chân Như, tất cả pháp Chân Như, cùng một Chân Như, không hai, không khác”. Như thế bởi vì tathata có nghĩa là Như, tướng Như, tánh Như, Chân Như.

Phẩm Đại Như bắt đầu bằng:

Chư Thiên cõi Dục, cõi Sắc rải hương bột chiên đàn và hoa sen xanh, đỏ, hồng, trắng cúng dường Đức Phật rồi đảnh lễ mà thưa rằng: Giác ngộ vô thượng của chư Phật rất sâu thẳm, khó thấy, khó hiểu, chẳng thể suy nghĩ mà biết được, là vi diệu tịch diệt, chỉ bậc trí mới biết được, ngoài ra tất cả thế gian chẳng thể tin. Vì sao thế? Vì trong Bát nhã ba la mật sâu xa nói thế này: Sắc tức là Bát nhã ba la mậtBát nhã ba la mật tức là sắc, cho đến nhất thiết chủng trí tức là Bát nhã ba la mậtBát nhã ba la mật tức là nhất thiết chủng tríSắc tướng Như, Bát nhã ba la mật tướng Như là một Như, không hai không khác. Cho đến nhất thiết chủng trí tướng Như, Bát nhã ba la mật tướng Như, là một Như, không hai, không khác.

Đức Phật dạy: Đúng như vậy. Này các Thiên tử! Sắc tức là Bát nhã ba la mậtBát nhã ba la mật tức là sắc. Cho đến nhất thiết chủng trí là Bát nhã ba la mậtBát nhã ba la mật là nhất thiết chủng trí.

Sắc tướng Như, cho đến Nhất thiết chủng trí tướng Như là một Như, không hai không khác” (Phẩm Đại Như thứ 54).

Bát nhã ba la mật là trí huệ thấu suốt rốt ráo tướng Như hay Chân Như của sắc thọ tưởng hành thức. Tướng Như hay Chân Như được Phật nói ngay sau đoạn trên:

Đây gọi là tướng rất sâu của các pháp, chính là không có hai pháp. Ví như hư không rất sâu thẳm nên pháp này rất sâu thẳm, vì Như rất sâu thẳm nên pháp này rất sâu thẳm, vì pháp tánhthật tế rất sâu thẳm, không thể nghĩ bàn, vô biên nên pháp này rất sâu thẳm. Vì không đến không đi rất sâu thẳm nên pháp này rất sâu thẳm, vì chẳng sanh chẳng diệt, không dơ không sạch, không trí không đắc rất sâu thẳm nên pháp này rất sâu thẳm”.

Tướng Như hay Chân Như là pháp tánhbản tánh của mọi sự. Chân Như hay pháp tánhthật tế sâu thẳm vì chỉ có trí huệ Bát nhã sâu thẳm (ba la mật) mới thấy biết được. Và Chân Như đồng nhất với tánh Không, “không đến không đi, chẳng sanh chẳng diệt, không dơ không sạch, không trí không đắc”.

Chân Như là chân lý tuyệt đối, là thực tại tuyệt đối, vượt ngoài - nghĩa là không ô nhiễm bởi - sự đến đi, sanh diệt, dơ sạch, trí đắc của không gian và thời gian. Như thế, Chân Như là “Pháp thân của tất cả chư Phật”.

Ngài Tu Bồ Đề nói: Này các Thiên tử! Các ngài nói Tu Bồ Đề là Phật tử, tùy Phật sanh, thế nào là tùy Phật sanh?

Vì tướng Như nên Tu Bồ Đề tùy Phật sanh. Tại sao thế? Vì Như Lai tướng Như chẳng đến chẳng đi, Tu Bồ Đề tướng Như cũng chẳng đến chẳng đi, thế nên Tu Bồ Đề là tùy Phật sanh.

Lại nữa, Tu Bồ Đề từ xưa đến nay vẫn tùy Phật sanh. Vì sao thế? Vì Như Lai tướng Như tức là tất cả pháp tướng Như, tất cả pháp tướng Như tức là Như Lai tướng Như. Trong tướng Như này cũng không có tướng Như, thế nên Tu Bồ Đề là tùy Phật sanh”.

Như Lai là tướng Như, chẳng đến chẳng đi, Tu Bồ Đề là tướng Như, cũng chẳng đến chẳng đi. Như Lai và Tu Bồ Đề đồng một tướng Như, đồng một Chân NhưChân Như là thật tướng của Như Lai và của Tu Bồ Đề. Thấy được thật tướng Chân Như của Như Lai và của Tu Bồ Đề nên ngài Tu Bồ Đề giải thoát, là vị A La Hán. Ngài thấy biết Chân Như của tất cả các pháp, của chính mình và của Như Lai, nên ngài sanh ra từ Chân Như, tùy Chân Như sanh. Tùy Chân Như sanh là “tùy Phật sanh”, như thế, Chân Như chính là Phật.

Hơn thế nữa, “Như Lai là tướng Như tức là tất cả pháp là tướng Như, tướng Như này cũng không có tướng”, nghĩa là tất cả các bậc giác ngộ, tất cả các vị thánh và tất cả các chúng sanh, tất cả các pháp hiện hữu đồng một Chân Như. Tất cả thánh phàm, tất cả thế giới là Chân Như, đây là các thấy biết rốt ráo của Phật, thế giới chúng sanh sanh tử không còn, chỉ có Niết bàn một vị Chân Như.

Tham thiền (contemplate) về Chân Như để tương ưng, thấy được phần nào thực tại Chân Như và an trụ trong đó để tất cả trở lại thành Chân Như, đây là con đường giải thoát giác ngộ của đạo Phật.

“Như Lai Chân Như tức là tất cả pháp Chân Như”. Tất cả mọi pháp hiện hữu là Chân Nhưthật tướng của tất cả các pháp thế gian là Chân Như. Thấy như vậy là đang đi trên con đường giải thoát giác ngộ. Không thấy được như vậy thì vẫn đi trên con đường thế gian sanh tử.

Chúng ta không thấy tướng Như hay Chân Như của tất cả hiện tượng, của tất cả pháp mà thấy những sự vật riêng lẻ tách biệt nhau. Đó là do tâm phân biệt chia tách thực tại thành những phần mảnh tách biệt từ đó các phiền não tham, sân, si, kiêu mạn, đố kỵ… tha hồ sanh khởithao túng toàn bộ cuộc đời chúng ta.

Để có được sự hài hòa, hợp nhất với thế giới, với người khác, chúng ta phải thấy thật tướng Chân Như của tất cả mọi sự. Để tiếp xúc, thấy được phần nào thực tại Chân Nhưđạo Phật dạy chúng ta ba pháp tịnh hóa tâm là Thiền định (Chỉ), Thiền quán (Quán) và Thiền định Thiền quán đồng thời (Chỉ Quán đồng thời). Ngoài ra các hành động (Hạnh) trong đời sống hàng ngày cũng phải tìm cách tương ưng, hòa điệu với Chân Như.

Lại nữa, Như Lai tướng Như là tướng thường trụTu Bồ Đề tướng Như cũng là tướng thường trụNhư Lai tướng Như không hai, không khác, Tu Bồ Đề tướng Như cũng không hai, không khác. Thế nên Tu Bồ Đề là tùy Phật sanh. Như Lai tướng Như không có chỗ ngại, tất cả pháp tướng Như cũng không có chỗ ngại, đây là Như Lai tướng Như cùng tất cả pháp tướng Như là một Như, không hai, không khác. Tướng Như này vô tác, trọn chẳng có gì chẳng Như, nên tướng Như này là Như duy nhất, không hai không khác. Thế nên Tu Bồ Đề là tùy Phật sanh.

Như Lai tướng Như tất cả chỗ vô niệm, vô biệt. Tu Bồ Đề tướng Như cũng tất cả chỗ vô niệm, vô biệt. Như Lai tướng Như không hai, không khác, chẳng thể đắc. Tu Bồ Đề tướng Như cũng như vậy, thế nên Tu Bồ Đề là tùy Phật sanh.

Như Lai tướng Như chẳng xa lìa các pháp tướng Như, tướng Như này trọn không có gì chẳng Như. Vì Như chẳng khác nên Tu Bồ Đề là tùy Phật sanh, mà cũng không chỗ tùy”.

Tướng Như hay Chân Như là “thường trụ, vô tác (không do ai hay cái gì làm ra), vô niệm, (không có các khái niệm phân biệt hư vọng), vô biệt (không khác biệt ở bất cứ nơi đâu, bất cứ thời gian nào) và chưa bao giờ xa lìa các pháp, các hiện tượng”. Rõ ràng và trực tiếp hơn nữa là “trọn không có gì chẳng Như”, không có cái gì chẳng phải là Chân Như, mắt thấy gì thì cái đó là Chân Như, tai nghe tiếng gì thì tiếng đó là Chân Như… Chân Như này không do ý nghĩ tạo tác (vô tác), không có khái niệm phân biệt (vô niệm), không có sự khác biệt do ý thức tạo thành (vô biệt), và đó là cái thường trụ không biến đổi từ vô thủy đến vô chung. Thiền định thiền quán về Chân Như như vậy dần dần người ta sẽ cảm nhận, tiếp xúc, thấy được một cách sơ khởi Chân Như. Khi đã thật thấy một cách trực tiếp, người ta an trụ vào thực tại Chân Như ấy và dần dần tiến lên các địa.

Lại nữa Như Lai tướng Như chẳng quá khứ, chẳng vị lai, chẳng hiện tại, các pháp tướng Như cũng chẳng quá khứ, chẳng vị lai, chẳng hiện tại, thế nên Tu Bồ Đề là tùy Phật sanh.

Lại nữa Như Lai Như chẳng ở trong quá khứ Như, chẳng ở trong vị lai Như, chẳng ở trong hiện tại Như. Quá khứ Như, vị lai Như, hiện tại Như cũng chẳng ở trong Như Lai Như, là một Như, không hai, không khác.

Sắc Như, thọ tưởng hành thức Như, Như Lai Như là một Như, không hai không khác.

Ngã Như cho đến tri giả Như, kiến giả Như, Như Lai Như là một Như, không hai không khác. Bố thí ba la mật Như cho đến Bát nhã ba la mật Như, Nội Không Như cho đến Vô pháp hữu pháp Không Như, bốn niệm xứ Như cho đến Nhất thiết chủng trí Như, Như Lai Như là một Như, không hai không khác.

Đại bồ tát do được Như ấy nên gọi là Như Lai”.

Trong Như Lai hay Chân Như không có quá khứvị laihiện tại, chỉ là một Như, không hai, không khác. Thấy có hai, có khác là do vô minh phân biệt hư vọng tạo thành, và thời gian và không gian có hai có khác từ cái thấy hư vọng ấy sanh ra.

“Sắc Như, thọ tưởng hành thức Như, Như Lai Như là một Như, không hai không khác”: tất cả những cái tạo lập ra thế giớichúng sanh, trong thật tướng, chúng đều là Như, không hai không khác.

Cho đến Phật pháp, cái giải thoát cho chúng sanh, từ “Bố thí ba la mật, mười sáu cái Không, bốn niệm xứcho đến Nhất thiết chủng trí và Như Lai Như là một Như, không hai không khác”. Tất cả các pháp thực hành cho đến trí huệ viên mãn đều là một Như, cho nên ngay nơi một pháp môn người ta có thể thấy biết bản tánh, nền tảng của pháp môn ấy là Chân Như.

Các pháp môn là một Như, là sự biểu lộ của một Như, tất cả các pháp môn có cùng một bản tánh, một nền tảng Chân Như, nên nếu có sự đốn tiệm, nhanh chậm là do duyên nghiệp của từng người.

Cái thấy biết của giác ngộ là hoàn toàn thấy tất cả thế gian và xuất thế gian là Chân Như. Thấy biết, chứng đắc hoàn toàn Chân Như thì được gọi là Như Lai.

Khi ngài Tu Bồ Đề nói phẩm Tướng Như này, cõi Đại thiên thế giới này chấn động sáu cách. Chư Thiên, cõi Dục cõi Sắc dùng bột hương chiên đàn rải trên Đức Phật và Tu Bồ Đề và tán thán ‘Thật là chưa từng có. Ngài Tu Bồ Đề do Như Lai Như mà tùy Phật sanh’.

Ngài Tu Bồ Đề lại nói với chư Thiên: “Này các Thiên tử! Tu Bồ Đề chẳng từ nơi sắc mà tùy Phật sanh, cũng chẳng từ nơi sắc Như mà tùy Phật sanh. Chẳng lìa sắc mà tùy Phật sanh, cũng chẳng lìa sắc Như mà tùy Phật sanh. Cho đến Tu Bồ Đề chẳng từ nơi nhất thiết chủng trí mà tùy Phật sanh, cũng chẳng từ nơi nhất thiết chủng trí Như mà tùy Phật sanh, chẳng lìa nhất thiết chủng trí mà tùy Phật sanh, cũng chẳng lìa nhất thiết chủng trí Như mà tùy Phật sanh. Tu Bồ Đề chẳng từ nơi vô vi mà tùy Phật sanh, cũng chẳng từ nơi vô vi Như mà tùy Phật sanh, chẳng lìa vô vi mà tùy Phật sanh, cũng chẳng lìa vô vi Như mà tùy Phật sanh.

Vì sao thế? Vì tất cả pháp đều là vô sở hữubất khả đắc, không có người tùy sanh, cũng không có pháp để tùy sanh”.

Ngài Tu Bồ Đề chẳng từ nơi sắc, sắc Như cho đến chẳng từ vô vivô vi Như mà cũng chẳng lìa sắc, sắc Như, cho đến chẳng lìa vô vivô vi Như mà tùy Phật sanh. Rốt ráo ngài Tu Bồ Đề là vô sanh, không từ đâu sanh mà cũng chẳng lìa đâu sanh. Thế nên kinh nói, “không có người tùy sanh, cũng không có pháp để tùy sanh”.

Vì tất cả pháp đều là vô sở hữu (không chỗ có), bất khả đắc (không thể đắc) đều là Như. Một nghĩa của vô sở hữubất khả đắc là, theo KinLăng Già, vượt khỏi tâm, ý, ý thức. Tâm, ý, ý thức chỉ có thể nắm lấy tướng, chỉ có thể biết “từ nơi” hoặc “lìa khỏi” nên không thể thấu rõ cái vốn là vô sở hữubất khả đắc, tức là Chân Như.

Ngài Tu Bồ Đề nói đoạn cuối này để xóa sạch những khái niệm dù cao siêu nhất còn vướng vất trong tâm, ý, ý thức của người nghe để đưa đến giải thoát rốt ráo.

Lúc bấy giờ ngài Xá Lợi Phất bạch Phật. Bạch Thế Tôn! Như ấy chân thật chẳng hư. Pháp tướngpháp trụpháp vị rất sâu thẳm. Trong đây, sắc không thể đắc, sắc Như không thể đắc. Vì sao thế? Vì sắc còn không thể đắc, huống gì sắc Như mà lại có thể đắc.

Cho đến nhất thiết chủng trí không thể đắc, nhất thiết chủng trí Như không thể đắc. Vì sao thế? Vì nhất thiết chủng trí còn không thể đắc, huống gì nhất thiết chủng trí Như mà lại có thể đắc.

Phật bảo Xá Lợi Phất: Đúng như vậy. Xá Lợi Phất! Như ấy chân thật chẳng hư. Pháp tướngpháp trụpháp vị rất sâu thẳm. Trong đây, sắc cho đến nhất thiết chủng trí đều không thể đắc, sắc Như cho đến nhất thiết chủng trí Như đều không thể đắc. Vì sao thế? Vì sắc cho đến nhất thiết chủng trí còn không thể đắc, huống gì sắc Như cho đến nhất thiết chủng trí Như mà lại có thể đắc.

Lúc ngài Xá Lợi Phất nói tướng Như ấy, trong pháp hội có hai trăm Tỳ kheo vì chẳng thọ tất cả pháp nên được hết phiền nãochứng quả A La Hán. Năm trăm Tỳ kheo ni xa lìa trần cấu, được pháp nhãn thanh tịnh. Năm ngàn Đại Bồ tát được vô sanh pháp nhẫn. Sáu ngàn Bồ tát vì chẳng lãnh thọ tất cả pháp nên sạch hết phiền não, tâm được giải thoát thành A La Hán”.

Phẩm này bắt đầu bằng những lời giảng của các Thiên tử, rồi lời dạy của Đức Phật và lời giảng “Tu Bồ Đề là tùy Phật sanh” của ngài Tu Bồ Đề. Sau cùng là lời của ngài Xá Lợi Phất và kết luận “Đúng như vậy” của Đức PhậtCuối cùng là những chứng đắc của các bậc thánh, ít nhất là “đắc pháp nhãn tịnh”, cao nhất là đắc quả A La Hán và Vô sanh pháp nhẫn của các Đại Bồ tát.

Ban đầu kinh nói, “sắc tướng Như cho đến nhất thiết chủng trí tướng Như là một Như, không hai không khác”, cuối cùng Kinh nói, “sắc Như cho đến nhất thiết chủng trí Như đều không thể đắc”.

Tại sao thế?

Ban đầu, với người bắt đầu thực hành thì Như là một khái niệm được hình dung bởi ngôn ngữ, chưa phải là một thực tại mà Kinh nói là “Như ấy chân thật chẳng hư, pháp tướngpháp trụpháp vị rất sâu thẳm”. Khái niệm ấy là những chỉ đường cho tâm, ý, ý thức đi dần đến và thể nhập Chân NhưThể nhập Chân Như là hòa hợp với Chân Như để được gọi là từ Chân Như sanh, tùy Phật sanh. Nhưng cuối cùng khi thực tại Chân Như đã được thấy rõ, được chứng ngộ thì những khái niệm ban đầu không còn cần thiết, có khi lại gây vướng mắc vi tế, nên Kinh kết luận, “sắc cho đến nhất thiết chủng trí còn không thể đắc, huống gì sắc Như cho đến nhất thiết chủng trí Như mà có thể đắc”.

Khi Kinh nói, “Như ấy chân thật không hư”, nghĩa là chỉ có Như, Chân Như, ngoài Như ấy không có thế gian sanh tử (sắc thọ tưởng hành thứccho đến các pháp xuất thế gian (bố thí ba la mật, mười sáu cái Không, bốn niệm xứcho đến nhất thiết chủng trí).

Tất cả chỉ là “Một Như, không hai, không khác”. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 152)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 229)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 256)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 288)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 358)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 564)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 630)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 569)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 634)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 562)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 500)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 563)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 638)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 653)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 745)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 564)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 465)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 548)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 622)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 551)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 559)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 663)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 679)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 658)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 726)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 766)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 737)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 928)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 786)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1317)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 870)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1032)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 797)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1018)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 961)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 929)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1072)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1325)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1680)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 925)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1099)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 920)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 786)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 908)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 947)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1358)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1106)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1141)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 896)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1033)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1469)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1356)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1348)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 969)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1349)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1255)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1175)
Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 1214)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1579)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant