Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tìm Hiểu Hạnh Nguyện Bồ Tát Qua Góc Nhìn Kinh Lăng Già

12 Tháng Tư 202318:32(Xem: 1335)
Tìm Hiểu Hạnh Nguyện Bồ Tát Qua Góc Nhìn Kinh Lăng Già
Tìm Hiểu Hạnh Nguyện Bồ Tát Qua Góc Nhìn Kinh Lăng Già 

Thích Nữ
Thanh Hảo

hoa sen 1


Tóm tắt: Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa. Vị Bồ tát theo Kinh Lăng Già có các hành tác rất cao thượng, tự giácgiác tha, làm lợi lạc cho nhân sinh. Từ đó cho thấy, Phật giáo là một tôn giáo rất cao thâm, vừa mang lại sự giác ngộ cho người tu tập, vừa đem lại lợi ích cho nhân quần xã hội.  

KHÁI NIỆM VỀ BỒ TÁT

Bồ tát là những vị mang hạnh nguyện cao cả, dấn thân đi vào cuộc đời để cứu độ chúng sanh, làm hành trang cho pháp tu và hạnh nguyện của mình. Các Ngài lấy chúng sinh hữu tình làm bạn đồng hành, trợ duyên cho Bồ tát tu tập đạt đến quả vị giác ngộ tối thượng. Khái niệm về Bồ tát (Pāli: Bodhisatta, Sankrit: Bodhisattva, Trung Hoa dịch là Bồ đề Tát đỏa) tương đối rộng. 

Theo sự hiểu thông thường, thuật ngữ Bodhisatta có hai phần: Bodhi và satta hay sattva. Có rất ít ý kiến bất đồng của các học giả về từ Bodhi với ý nghĩa là “sự chứng ngộ hay giác ngộ”, nhưng lại có nhiều tranh cãi về ý nghĩa và sự ứng dụng của “satta” hay “sattva” trong phạm trù liên hệ. Bộ Bách Khoa Tôn Giáo cho rằng: “Theo từ nguyên học, Bodhisattva là thuật ngữ ghép thành từ chữ Bodhi, với ý nghĩa là “sự giác ngộ hay chứng ngộ” (của một vị Phật), và sattva có nghĩa là “chúng sinh”. 

Như vậy, Bodhisattva đề cập đến hoặc một người đang mưu cầu giác ngộ (Bodhi) hoặc “một chúng sinh giác ngộ” (Bodhi being), nghĩa là chúng sinh ấy chắc chắn sẽ chứng đắc quả vị Phật. Bộ Bách Khoa Phật Giáo lại có định nghĩa: “Bodhisattva (Pāli: Bodhisatta) là một chúng sinh thiết tha đối với sự giác ngộ (Bodhi)”. Theo từ nguyên, Bodhi gốc từ chữ Budh, nghĩa là “sự tỉnh ngộ” hay “giác ngộ”. Còn “sattva”, bắt nguồn từ saint, hiện tại phân từ của nó mang ý nghĩa là “sự hiện hữu” hay “sự tồn tại” (to be or being); hay theo nghĩa đen, “sattva là một chúng sinh”. Do vậy, thuật ngữ này mang ý nghĩa là “một chúng sinhbản chất là giác ngộ”, hoặc “một vị Phật tương lai”. Cũng có sự gợi ý rằng thuật ngữ satta của Pāli có thể bắt nguồn từ Bodhi và satta (Sanskrit Sakta có gốc từ Sanj), nghĩa là “một người gắn bó hay khao khát để đạt đến sự giác ngộ”. 

Trong một nghiên cứu về giáo lý Bồ tát, giáo sư Har Dayal cho rằng sattva (giống đực) có thể mang ý nghĩachúng sinh hay hữu tình (Skt. Dicy. M. W). Từ Pāli “satta” có thể có nghĩa là chúng sinh, hay sinh vật, hữu tình, hay con người. Hầu hết các học giả chấp nhận sự giải thích này. 

Như vậy, từ Bodhisatta trong kinh điển Pāli dường như có nghĩa là “một chúng sinh giác ngộ”. Tuy thế, satta ở đây không hàm nghĩa là một hữu tình bình thường, và hầu như từ ngữ ấy liên hệ chắc chắn với từ của Vedic “Krieger”, có nghĩa là “một người mạnh mẽ hay dũng cảm, tức anh hùng hay chiến sĩ”. Như vậy, Bồ tát có thể dịch là “giác hữu tình” hay “hữu tình giác”, nghĩa là một chúng sinh hữu tình trong quá trình tu tập theo giáo lýNhư Lai đã giảng dạy đạt được giác ngộ, sau đó đem những điều đã giác ngộ đi giáo hóa, chỉ dạy cho những người khác cũng được giác ngộ như mình. Thể hiện tinh thần tự giác giác tha, tự độ độ tha

Có thể nói, một trong những học thuyết nổi bật của Phật giáo Đại thừahọc thuyết Bồ tát, mặc dù khái niệm về thuật ngữ này đã xuất hiện trước đó trong Phật giáo Theravāda nhưng với việc xây dựng hình tượng Bồ tát lý tưởng đi cùng với những phương pháp tu tậphạnh nguyện độ sanh, Phật giáo Đại thừa Phật giáo thể hiện tinh thần nhập thế rất tích cực. Vì thế, hầu hết các bản kinh Đại thừa đều đề cập đến hình ảnh của các vị Bồ tát và những đặc điểm của Ngài, nhất là Kinh Lăng Già

NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA VỊ BỒ TÁT

Kinh điển Đại thừa vẽ nên một hình tượng vị Bồ tát đi vào đời hoằng hóa với nhiều phương tiện khác nhau. Nếu như trong Kinh Hoa Nghiêm, Bồ tát đóng vai trò như một ngọn đèn soi sáng chúng sanh; trong Kinh Pháp Hoa (phẩm Phổ Môn), Bồ tát có thể hóa hiện nhiều thân hình để hóa độ chúng sanh, là cho họ được lợi ích an vui; thì trong Kinh Lăng Già, Bồ tát vì muốn cứu độ tất cả chúng sanh đạt đến Niết bàn nên phát nguyện ở lại thế gian nhiều đau khổ này để làm lợi ích cho tất cả chúng sanh. Đời sống, hành tác cũng như những đặc điểm của một vị Bồ tát được Kinh Lăng Già đề cập cụ thể qua các phần như: Sự tự tu và gia trì lực (Adhishthana); Sự thanh tịnh (Visuddhi) tâm; Ý sinh thân (Manomayakāya); Vị Bồ tátđời sống xã hội; Vị Bồ tát không bao giờ nhập Niết-bàn; Các bổn nguyện của vị Bồ tát và các công dụng hạnh của Ngài; Mười bổn nguyện của Bồ tát Phổ Hiền (Samantabhadra). 

Thứ nhất, sự tự tu và gia trì lực: Đây là hai điều thiết yếu quan trọng mà một vị Bồ tát cần phải có. Theo Kinh Lăng Già, sự trang bị về luận lý và tâm lý phải được gia tăng lên nữa bằng sự tu tập thực tiễn mà không có sự tu tập này thì vị Bồ tát không thể khác gì hơn một vị triết gia lý niệm. Vị Bồ tát phải tìm một chỗ yên lặng và đơn độc mà tự tu tập nhờ vào trí tuệ của mình. Một điểm khác biệt giữa Phật giáo Bộ pháiPhật giáo Đại thừa là: Nếu Phật giáo bộ phái chủ trương chỉ có tự lực không cần phụ trợ bên ngoài, thì Đại thừa cho rằng có tha lực. Lăng Già gọi tha lực ấy là “Adhiasthāna” (gia trì lực). 

Thứ hai, sự thanh tịnh tâm: Để thành tựu cứu cánh giác ngộ tuyệt đối, vị Bồ tát phải thanh lọc tâm ý của mình cũng như tất cả chúng sanh với sự hộ trì bằng gia trì lực của tất cả chư Phật. Vị nào thực sự là hiện thân của hạnh nguyện làm lợi ích người khác thì bao giờ cũng nghiêng về việc thức tỉnh họ chứng ngộ. Kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đa và các kinh khác có đề cập, sự phát khởi ý tưởng chứng ngộ luôn được nói đến như là bước đầu tiên tiến đến sự đạt đến chân ý của Như Lai tính. Vì thế, Bồ tát Mahāmati đã nêu lên một câu hỏi về sự thanh tịnh: “Sự tẩy sạch mà Đức Phật thực hiện là ngay liền hay dần dần, sự tẩy sạch cho tất cả các chúng sinh khỏi những lậu hoặc của tâm mà theo đó họ chấp vào cái thực tính của một thế giới đối tượng?”.

Thứ ba, ý sinh thân, chúng ta không thấy có sự xác định rõ ràng nào về học thuyết tam thân trong Kinh Lăng Già nhưng tất cả các ý niệm tạo thành như có thể nhận ra được như sau đây: Đức Phật Pháp tính, Phật Sở Lưu và Phật Biến Hóa rõ ràngtương ứng với tam thân sau này là pháp thân, ứng thânhóa thân. Ý sinh thân (Manomayakāya) là năng lực di chuyển khắp nơi nhanh chóng không bị trở ngại, theo như ý muốn. Kinh Lăng Già liệt kê ba loại ý sinh thân: 1. Cái ý thân đạt được trong hạnh phúc của Tam-ma-địa; 2. Cái ý thân sinh ra từ cái biết về sự tự tính của Pháp; 3. Cái ý thân mà các hành động của nó có thể toan tính được, được sinh ra trong hàng Thánh giả. Trong ba loại này, loại thứ hai quan trọng nhất, và từ khi Thân được nêu ra mà không có các định tính thì thường được hiểu là cái thân thuộc loại thứ hai này. 

Thứ tư, vị Bồ tátđời sống xã hội, chủ đề trung tâm của Kinh Lăng Già được giải thích là sự đạt tới trí tuệ thâm nhập vào tâm thức thâm kín nhất. Phật giáotôn giáo có mặt thực hànhxã hội, nếu có mặt này mà không có mặt kia thì sẽ mất đi lý do hiện hữu của đạo Phật. Vì vậy, Kinh Lăng Già cũng chuẩn bị cho Bồ tát sứ mạng của bản thân như là một thành viên trong cộng đồng. Một vị Bồ tát phải phát nguyện rộng độ tất cả chúng sanh, làm lợi ích cho hết thảy các loài hữu tình, xem họ như người thân, như cha mẹ, vợ con, anh em hay như chính bản thân mình mà hóa độ, không khởi tâm phân biệt hay lợi dụng. “Tuy thế trái tim đại bi vẫn khởi dậy trong họ” đây là đoạn quan trọng trong triết học Lăng Giàtoàn bộ giáo lý Đại thừa. Bồ tát lấy đại bi tâm làm đầu, yêu thương chúng sanh như tình mẹ thương con và nương vào chúng sanh để tu tập tiến đến giải thoát giác ngộ. Những luật tắc và những thệ nguyện của vị Bồ tát, cũng như việc thực hành Bồ tát đạo, được giảng giải khắp các kinh luận Đại thừa. Nói chung, Bồ tát được xem là mẫu người có nhân cách lý tưởng và cao thượng, những giới luật Bồ tát được xem như những chuẩn tắc đưa đến đời sống đạo đức, xây dựng một xã hội tốt đẹp, cuối cùng là đưa hành giả đến sự giải thoát. Bồ tát đi vào đời, vừa tu tập hoàn thiện bản thân vừa làm cho thế gian tốt đẹpnhân bản hơn đúng với lời Đức Phật dạy trong Kinh Trường Bộ (Kinh Đại Bổn): “Này các Tỳ kheo, hãy đi cùng khắp vì hạnh phúc cho đại chúng, vì an lạc cho đại chúng, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc, vì lợi ích, vì an lạc cho loài người, loài trời. Chớ có đi hai người cùng một chỗ… Hãy nêu rõ đời sống phạm hạnh hoàn toàn thanh tịnh. Có những chúng sanh ít nhiễm bụi đời, nếu không được nghe chánh pháp sẽ bị nguy hại. Nếu được nghe sẽ thâm hiểu chánh pháp”. 

“Do bởi mười vô tận nguyện của Ngài, Ngài sẽ đưa tất cả chúng sinh đến sự chín muồi và Ngài hiện ra nhiều hình tướng khác nhau đáp ứng theo yêu cầu của mọi chúng sinh mà sẽ không bao giờ biết ngưng công tác mình ở đâu cả; và tuy vậy, tâm Ngài vẫn luôn an trụ trong trạng thái tự chứng và trong cả sự an hưởng thiền định viên mãn”.

Thứ năm, vị Bồ tát không bao giờ nhập Niết bàn: Kinh Lăng Già đề cập đến năm đẳng cấp chúng sanh: những chúng sanh thuộc hàng Thanh văn, hàng Bích chi Phật, hàng Như Lai, các chúng sanh không thuộc đẳng cấp rõ ràng và các chúng sinh không thuộc những đẳng cấp trên. Bởi vì hạnh nguyện của vị Bồ táthóa độ tất cả chúng sinh không cùng tận, cho nến nếu còn một chúng sanh đau khổ, còn một chúng sinh chưa giác ngộ trong thế giới này thì các Ngài sẽ không nhập Niết bàn: “Do bởi mười vô tận nguyện của Ngài, Ngài sẽ đưa tất cả chúng sinh đến sự chín muồi, và Ngài hiện ra nhiều hình tướng khác nhau đáp ứng theo yêu cầu của mọi chúng sinh mà sẽ không bao giờ biết ngưng công tác mình ở đâu cả; và tuy vậy, tâm Ngài vẫn luôn an trụ trong trạng thái tự chứng và trong cả sự an hưởng thiền định viên mãn”. 

Thứ sáu, bổn nguyện của vị Bồ tát và các vô công dụng hạnh của Ngài: Vị Bồ tát có mười hạnh nguyện lớn lập thệ rộng lớn phát khởi vào lúc khởi đầu sự nghiệp tâm linh, tức là khi Ngài đã nhập địa Bồ tát thứ nhất hay đúng hơn là đời sống Phật, được gọi là Hoan hỷ địa, trải qua mười địa như vậy Ngài đạt đến cuộc sống vô công dụng hạnh. Các vị luôn mang trong mình một trái tim đại bi cứu độ chúng sanh, đó luôn là động lực mạnh mẽ nhất trong suốt quá trình tâm linh của các Ngài. Khi các Ngài đạt đếncông hạnh tức là đang đứng trong Bất động địa, vị Bồ tát có thể chứng được Vô sinh pháp nhẫn

Thứ bảy, mười bổn nguyện của Bồ tát Phổ Hiền: 1. Đảnh lễ tất cả chư Phật. 2. Tán thán tất cả chư Phật. 3. Thực hiện đủ mọi thứ cúng dường, nhất là những gì có thể gọi đủ là cúng dường pháp. 4. Sám hối tất cả các tội lỗi mà các vị đã từng phạm. 5. Chân thành vui mừng vì những công hạnh mà người khác đạt được. 6. Thỉnh cầu Đức Phật chuyển pháp luân. 7. Thỉnh cầu Đức Phật trú thế trong thế giới này. 8. Luôn luôn học từ cuộc sống của Đức Phật. 9. Chăm lo cho tất cả hạnh phúc tâm linh của tất cả chúng sanh. 10. Hồi hướng tất cả công đức của các vị đến sự phát triển thiện và ngăn chặn ác. Đây là mười lời nguyện, và khi thực hành một vị Bồ tát sẽ không biết đến khi nào mới ngưng công việc của các Ngài. Vì việc thực hành không giới hạn không gian thời gian, chừng nào còn một chúng sanh sót lại trong thế gian phải được cứu độ, chừng nào còn có một ham muốn xấu xa thì phải được tiêu diệt. Thế nên, Bồ tát sẽ làm việc không ngừng, không gián đoạn bằng thân, khẩu, ý cho đến lúc tận cùng của thế giới

NHẬN ĐỊNH

Thật vậy, bản chất cốt lõi của vị Bồ tátlấy lòng đại bi làm đầu, xem tất cả chúng sanh là đối tượng của lòng đại từ bi đó. Với những hạnh nguyện lớn lao, các Ngài đi vào đời cứu độ nhân sinh, chưa bao giờ rời bỏ bất kỳ một chúng sanh đau khổ nào lại phía sau cuộc hành trình của mình. Tuệ quán của các Ngài là nhận thứctính không của vạn pháp, những việc cứu độ của họ thì không nằm ngoài thế gian đau khổ này. Điều kiện sống của vị Bồ tát là ở nơi đời sống của những con người bình thường, và lòng từ bi sẽ trở thành chất liệu nền tảng cho tất cả hành động. Vì vậy, con đường Bồ tát không 6 phải là con đường chỉ trải toàn hoa hồng, êm đềm phẳng lặng, bởi vì cuộc đời vốn gập gành và đầy những chướng ngại trên mọi lối đi. Học giả D.T.Suzuki đã nhận định: “Phật giáo là một tôn giáo và như mỗi tôn giáo có mặt xã hộitu tập tâm linh, không có điều này thì Phật giáo sẽ mất lý do để tồn tại. Kinh Lăng Già (Laṇkāvatāra sutra) cũng chuẩn bị cho Bồ tát với sứ mệnh như là một trong những thành viên của cộng đồng xã hội, hoạt động từ thiện hữu ích chúng sanh. Trong khi mục tiêu của Tiểu thừa không ngoài giải thoát cá nhân, đạt A-la-hán, một cuộc sống thánh thiện an tĩnh. Đây là sự khác nhau giữa Đại thừa và Tiểu thừa…”. 

Trong Đại thừa Phật giáo, Bồ tát được chia làm ba hạng: Trí tuệ Bồ tát (Paññādhika), Đức tin Bồ tát (Saddhādhika) và Tinh tấn Bồ tát (Viriyādhika). Trí tuệ Bồ tát là bậc ít thiên về lòng nhiệt thành sùng đạo nhưng kiên trì tinh tấn trên con đường phát triển trí tuệ. Đức tin Bồ tát là bậc sùng mộ, tin tưởng nơi lễ bái thờ phụng. Tinh tấn Bồ tát là bậc thường dựa vào nỗ lực tinh tấn của bản thân. Đức Phật được tôn sùng là bậc Đại Trí tuệ, Ngài đã ở trong vô lượng kiếp sâu xa thực hành Bồ tát đạo đến khi công đức viên mãnthành tựu quả vị Phật Đà. Dù ở vị trí nào, các Ngài luôn luôn hoạt động, làm việc không ngừng nghỉ, không mệt mỏi để cứu độ chúng sinh. Các Ngài vượt ra ngoài mọi ham muốn, không màng đến danh thơm tiếng tốt mà chỉ chú trọng đến sự tận tâm phục vụ. Ai biết, ai hay điều đó không quan trọng, chẳng màng đến tiếng khen chê của nhân thế, các Ngài chỉ một lòng thực hiện hạnh nguyện tự độ độ tha của mình. Vị Bồ tát quên mình trong khi phục vụ chúng sinh, dẫu có hi sinh cả tính mạng. Vị Bồ tát ước mong cho thế gian luôn tốt đẹp, yêu thương chúng sanh như con duy nhất của mình. Bồ tát hòa mình với tất cả mọi người: “Tâm bi của Bồ tát nhằm thực hiện tánh cách bình đẳng giữa Ngài và người khác và cũng đặt mình trong kẻ khác”. Trong quá trình thực hành Bồ tát đạo, các vị không còn ý niệm về cái “tôi”, không có tâm phân biệt. Ngài đồng hóa với tất cả, lấy thiện trả ác, lấy lành trả dữ, giúp đỡ tất cả với trái tim yêu thương vô bờ bến: “Bị nhục mạ nhưng không nhục mạ lại, bị đánh đập nhưng không đánh đập lại, bị làm phiền nhưng không phiền nhiễu ai, Bồ tát một mực giữ đức khoan hồng. Tựa như đất mẹ trầm lặng, Bồ tát âm thầm chịu đựng tất cả những lỗi lầm của kẻ khác”. 

Các vị luôn mang trong mình một trái tim đại bi cứu độ chúng sanh, đó luôn là động lực mạnh mẽ nhất trong suốt quá trình tâm linh của các Ngài. Khi các Ngài đạt đếncông hạnh tức là đang đứng trong Bất động địa, vị Bồ tát có thể chứng được Vô sinh pháp nhẫn.

KẾT LUẬN

Kinh Lăng Già cho thấy rõ những đặc điểmphạm vi hành hoạt của Bồ tát vô cùng đa dạng. Trong thời đại ngày nay, nhiệm vụ của các Ngài càng trở nên phong phú hơn trong xã hội với nhiều hình ảnh, nhiều phương tiện khác nhau mà các Ngài đã thực hiện để đến với cuộc đời. Một ví dụ cụ thể là trong đại dịch Covid-19 vừa qua, trước tiếng kêu than của những người bệnh, những người thực hiện công hạnh như vị Bồ tát đã xuất hiện. Đó có thể là các vị bác sĩ, y tá, thanh niên phát nguyện đem bánh mì đi khắp thành phố cho những người lang thang, sinh viên tình nguyện, các chiến sĩ công an, bộ đội kiểm soát các chốt kiểm dịch, phân phối hàng cứu trợ… và trong đó có cả hình bóng của các “chiến sĩ áo nâu” khoác lên mình chiếc áo blouse trắng hay bộ đồ bảo hộ xông pha nơi tuyến đầu chống dịch. Đông đảo chư Tăng Ni, Phật tử khắp mọi miền đất nước theo tiếng gọi của Tổ quốc đã tình nguyện lên đường chống dịch với nghĩa cử cao đẹp “Lạy Phật con đi phụng sự nhân sinh”. Các vị đã đem đến nguồn năng lượng tích cực, đồng sức đồng lòng chung tay cùng với cả dân tộc chống đại dịch Covid-19.

Tất cả đó là những tấm lòng đại bi của một vị Bồ tát thực thụ, các vị đau với nổi đau của chúng sinh, khóc với nỗi lầm than của chúng sinh, buồn với những mất mát bi thương của những kiếp người cơ cực. Lý tưởng Bồ tát đã, đang và sẽ hóa hiện ở giữa cuộc đời với nhiều hình thức khác nhau để san sẻ tình thương đến tất cả chúng sinh

 

Tài liệu tham khảo

1. Thích Minh Châu (dịch, 2018), Kinh Trường Bộ, kinh Đại Bổn, Hà Nội, Nxb. Tôn giáo
2. Nārada Mahā Thera, Phạm Kim Khánh (Việt dịch, 2019), Đức PhậtPhật pháp, Nxb. Tổng hợp TP HCM. 
3. Daisetz Teitaro Suzuki, Tỳ kheo Thích Chơn Thiện – Trần Tuấn Mẫn (dịch, 2005), Nghiên cứu Kinh Lăng Già, Nxb. Tôn giáo
4. D.T.Suzuki, Studies in the Laṇkāvatāra Sutra, Routledge and Kagan Pual LTD, London, rpt. 1975, tr.214. 
5. Thích Viên Trí (2002), Khái niệm về Bồ tát Quan Thế Âm, Nxb. Tôn giáo.
(Trích: Tạp chí Văn hóa Phật giáo 406)

Tìm Hiểu Hạnh Nguyện Bồ Tát Qua Góc Nhìn Kinh Lăng Già
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2027)
Vũ trụ này thực sự là gì? Tại sao có những thế giới nhiễm ô của chúng sanh? Làm gì để “chuyển biến” thế giới nhiễm ô thành thế giới thanh tịnh?
(Xem: 3032)
Tôi không cần giải thích tại sao bạn cần phải thực hành Pháp; tôi nghĩ bạn hiểu điều đó.
(Xem: 2646)
Thế giới chúng ta đang sinh sống ắt phải nằm trong “Hoa tạng thế giới”, tức là thế giới Hoa Nghiêm
(Xem: 3553)
Việc thẳng tiến bước trên con đường đạo lý thanh cao hầu đạt đến chân lý hạnh phúc chẳng khác nào bơi ngược dòng đời là một vấn đề...
(Xem: 3379)
Chúng ta thấy một sự vật bằng cách thấy màu sắc của nó và nhờ màu sắc ấy mà phân biệt với những sự vật có màu sắc khác
(Xem: 4219)
Tiếng Sankrit là Drama (tiếng Tạng là: cho) nghĩa là giữ lấy hoặc nâng đỡ. Vậy Pháp nâng đỡ hoặc duy trì cái gì?
(Xem: 3736)
Trong những nhà phiên dịch kinh điểnthời kỳ đầu của Phật giáo Trung Quốc, ngài Đàm-vô-sấm (曇無讖) hiện ra như một nhà phiên kinh trác việt[1].
(Xem: 4276)
Khi chúng ta mới học lần đầu rằng cứu cánh của sự tu tập đạo Phật có tên gọi là Nibbana (Nirvana, Niết-bàn),
(Xem: 2358)
“Đức Phật nói: Như vậy, như vậy, như lời ông nói. Tu Bồ Đề! Nhất thiết chủng trí, chẳng phải là pháp tạo tác, chúng sanh cũng chẳng phải là pháp tạo tác.
(Xem: 3530)
Đức Phật cho rằng, bạn phải quan sát hơi thở như nó đang là-yathabhuta. Nếu hơi thở dài, bạn biết nó dài, nếu hơi thở ngắn, bạn biết nó ngắn.
(Xem: 4213)
Tâm là kinh nghiệm cá nhân, chủ quan về “điều gì” luôn luôn thay đổi, từ khoảnh khắc này đến khoảnh khắc khác.
(Xem: 3995)
“Cánh cửa bất tử đã mở ra cho tất cả những ai muốn nghe”, đây là câu nói của Đức Phật sau khi Ngài giác ngộ.
(Xem: 2921)
Trong các kinh thường ví chân tâm là viên ngọc, như viên ngọc như ý, viên ngọc ma ni, lưới Trời Đế Thích…Bài kệ này chỉ thẳng Viên Ngọc Tâm
(Xem: 3409)
Trong Nguồn thiền, Tổ Khuê Phong Tông Mật nói: “Người ngộ ngã pháp đều không, hiện bày chân lý mà tu là thiền Đại thừa”.
(Xem: 3527)
Trong Kinh Văn Thù quyển hạ có chép: Ngài Văn Thù thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn thì đệ tử của Ngài phân hóa bộ phái như thế nào?
(Xem: 4590)
Vấn đề Nam tôngBắc tông là một vấn đề tương đối rất cũ – cũ đến hơn một ngàn năm trăm năm kể từ ngày con người có được cái hạnh phúc biết đến giáo pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 3924)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”
(Xem: 4815)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 4083)
Mất 11 năm khổ công tầm đạo, Đức Phật Thích Ca đã đạt đại giác ngộ sau 49 ngày quyết tâm thiền định dưới cội cây bồ đề.
(Xem: 3063)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”...
(Xem: 3803)
Một người không có trí nhớ, hoặc mất trí nhớ, cuộc đời người ấy sẽ ra sao?
(Xem: 3953)
Chí đạo vốn ở tâm mình. Tâm pháp vốn ở vô trụ. Tâm thể vô trụ, tánh tướng tịch nhiên, chẳng phải có chẳng phải không, chẳng sanh chẳng diệt.
(Xem: 3124)
Trước khi nhập Niết-bàn, đức Phậtdi giáo tối hậu cho các chúng đệ tử: “Pháp và Luật mà Ta đã thuyết và qui định, là Đạo Sư của các ngươi sau khi Ta diệt độ.”
(Xem: 3648)
Phật giáo là một tổ chức cộng đồng (Samasambhaga) ra đời sớm nhất trong lịch sử nhân loại (-5 CN).
(Xem: 4496)
Đức Phật, một nhân vật lịch sử 3000 năm về trước, ra đời tại Bắc Ấn, là bậc giác ngộ toàn triệt, là bậc đạo sư với nghi biểu đặc biệt xuất hiện ở đời.
(Xem: 3763)
Con người sanh ra để hưởng thụ qua lục dục như tài, sắc, danh, thực, thùy (Ngủ nghỉ), .v.v. Con người trải qua một chu kỳ già, bệnh và cuối cùng là chết.
(Xem: 2305)
Nguyên bản: Teachings On The Eight Verses On Training The Mind. Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma . Anh dịch: Thupten Jinpa. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 2667)
Phật tánh với thành Phật là hai vấn đề khác nhau, không thể đồng nhất được.
(Xem: 3072)
Kinh Tiểu Duyên (Aggaññasutta) trong tiếng Pali có nghĩa là kinh nói về nguyên nhân hay bài giảng về khởi nguyên các pháp.....
(Xem: 2761)
Đức Phật đã dạy về những sự thật này ngay khi ngài đạt đến Giác Ngộ như một phần của những gì được biết như Chuyển Pháp Luân Lần Thứ Nhất.
(Xem: 4634)
“Thiên đường có lối sao chẳng đi Địa ngục không cửa dấn thân vào”
(Xem: 4977)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 2870)
Kính lễ đạo sư và đấng bảo hộ của chúng con, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát! Sự thông tuệ của ngài chiếu soi như mặt trời, không bị che mờ bởi vọng tưởng hay dấu vết của si mê,
(Xem: 5378)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm
(Xem: 2896)
Trong phẩm Ứng Tận Hoàn Nguyên kinh Đại Bát Niết Bàn, nói về sự nhập Niết bàn của Đức Phật.
(Xem: 3335)
Trong số các vị Tổ sư của Thiền phái Vô Ngôn Thông, Viên Chiếu được xem là vị Thiền sư danh tiếng, lỗi lạc bậc nhất.
(Xem: 4421)
Nguyên tử giải phóng trở thành nguyên tử năng là đánh dấu thời đại đại phát minh của nhân loại. Là họa hay là phước tạm thời không bàn luận đến.
(Xem: 4982)
Luân hồinhân quả là hai sự kiện tương quan. Bởi chúng sanh còn nghiệp trái của nhân quả thiện ác nên mới bị luân hồi.
(Xem: 4746)
“Tướng” là cái gì? “Tướng” chính là tướng trạng của sự vật biểu hiện nơi ngoài và tưởng tượng ở nơi trong tâm chúng ta.
(Xem: 3289)
Kính Pháp Sư Hiền Đức, tôi là một tu sĩ đạo hiệu Thích Thắng Hoan có vài lời tâm niệm gởi đến Pháp Sư, một hôm tôi đến chùa...
(Xem: 4594)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 4316)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 6183)
Mùa xuân là dịp để trở về, dừng bước chân hoằng hóa để quán chiếu mọi nhân duyên giữa đời.
(Xem: 3541)
Bản Pháp văn mà tôi giới thiệu ở đây, không phải là toàn văn được in trên giấy, mà chỉ là một phần gọn nhẹ và cô đọng, cắt bớt những giới luật khá khắt khe khó tiếp cận với người Tây phương, nên giản dị và dễ đi vào lòng người.
(Xem: 4077)
Trước đây rất lâu từ những năm 1930, người ta đã chất vấn, phê phán rằng những người theo Phật giáo không biết làm giàu.
(Xem: 6058)
Trong không gian mênh mông của vườn kinh điển Đại Thừa, Diệu Pháp Liên Hoa là đoá hoa vi diệu nhất mà chính Đức Thế Tôn đã ca ngợi
(Xem: 5455)
Trong cuộc sống, nếu một người mất đi niềm tin sẽ trở nên vị kỷ, bất cần và gặt hái khổ đau, dễ dàng bị tác động vào những...
(Xem: 4105)
Đức Phật đã dạy: "Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh." Tất cả mọi loài, ai cũng có cái tánh làm Phật. Mình hiểu lời Phật dạy một cách nôn na như vậy.
(Xem: 33331)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 3213)
Ngày nay, vấn đề kỳ thị chủng tộc, giai cấp, giới tính được con người quan tâmtranh đấu quyết liệt hơn bao giờ hết.
(Xem: 4200)
Phật tánhthực tại tối hậu của chúng sanh và các bậc giác ngộ. Kinh Đại Bát Niết Bàn đã dùng nhiều từ để chỉ Phật tánh này
(Xem: 4769)
Kinh Biệt Giải Thoát Giới - tên gọi khác của Kinh Tư Lượng (Anumāna Sutta) - là bài kinh thứ mười lăm trong Majjhima Nikāya
(Xem: 3136)
Trong suốt hai ngàn năm lịch sử, đạo Phật luôn luôn có mặt trong lòng dân tộc Việt Nam khắp nẻo đường đất nước và gắn bó với dân tộc Việt Nam trong mọi thăng trầm vinh nhục.
(Xem: 3852)
Có nhiều bài kệ rất hay khi xướng lên hay khi tán tụng; hoặc giả khi mạn đàm Phật Pháp; nhưng cũng có lắm bài kệ...
(Xem: 3589)
Từ nhỏ, lúc mới vào chùa khi 15 tuổi của năm 1964 và năm nay 2020 cũng đã trên 70 tuổi đời và hơn 55 năm sống trong Thiền Môn
(Xem: 6607)
Duy Thức Học được gọi là môn triết họcmôn học này nhằm khai triển tận cùng nguyên lý của vạn hữu vũ trụ nhân sanh mà vạn hữu vũ trụ nhân sanh...
(Xem: 2817)
Vấn đề thế giới địa ngụcvấn đề rất nhiều nghi vấn, những người theo đạo Phật thì tin có thế giới địa ngục, những người không theo đạo Phật thì không tin có thế giới địa ngục và có một hạng người thì nửa tin nửa ngờ.
(Xem: 3272)
Vấn đề tụng niệm một số người không nắm được giá trịnghĩa lý của nó nên có thái độ khinh thường, xem nhẹ, không quan tâm, không chú trọng cho việc làm này...
(Xem: 4634)
Phật tại thế thời ngã trầm luân, Kim đắc nhân thân Phật diệt độ, Áo não tự thân đa nghiệp chướng, Bất kiến Như Lai kim sắc thân.
(Xem: 3498)
Có những bài tán nghe qua là hiểu liền nội dung; nhưng cũng có những bài tán rất khó hiểu, không biết lý do vì sao? Trong đó có bài tán “Chiên Đàn” là một.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant