Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Tìm Hiểu Hạnh Nguyện Bồ Tát Qua Góc Nhìn Kinh Lăng Già

12 Tháng Tư 202318:32(Xem: 1175)
Tìm Hiểu Hạnh Nguyện Bồ Tát Qua Góc Nhìn Kinh Lăng Già
Tìm Hiểu Hạnh Nguyện Bồ Tát Qua Góc Nhìn Kinh Lăng Già 

Thích Nữ
Thanh Hảo

hoa sen 1


Tóm tắt: Lý tưởng về một vị Bồ tát bắt nguồn từ Phật giáo Nguyên thủy và được phát triển hoàn thiện trong tinh thần Phật giáo Đại thừa. Vị Bồ tát theo Kinh Lăng Già có các hành tác rất cao thượng, tự giácgiác tha, làm lợi lạc cho nhân sinh. Từ đó cho thấy, Phật giáo là một tôn giáo rất cao thâm, vừa mang lại sự giác ngộ cho người tu tập, vừa đem lại lợi ích cho nhân quần xã hội.  

KHÁI NIỆM VỀ BỒ TÁT

Bồ tát là những vị mang hạnh nguyện cao cả, dấn thân đi vào cuộc đời để cứu độ chúng sanh, làm hành trang cho pháp tu và hạnh nguyện của mình. Các Ngài lấy chúng sinh hữu tình làm bạn đồng hành, trợ duyên cho Bồ tát tu tập đạt đến quả vị giác ngộ tối thượng. Khái niệm về Bồ tát (Pāli: Bodhisatta, Sankrit: Bodhisattva, Trung Hoa dịch là Bồ đề Tát đỏa) tương đối rộng. 

Theo sự hiểu thông thường, thuật ngữ Bodhisatta có hai phần: Bodhi và satta hay sattva. Có rất ít ý kiến bất đồng của các học giả về từ Bodhi với ý nghĩa là “sự chứng ngộ hay giác ngộ”, nhưng lại có nhiều tranh cãi về ý nghĩa và sự ứng dụng của “satta” hay “sattva” trong phạm trù liên hệ. Bộ Bách Khoa Tôn Giáo cho rằng: “Theo từ nguyên học, Bodhisattva là thuật ngữ ghép thành từ chữ Bodhi, với ý nghĩa là “sự giác ngộ hay chứng ngộ” (của một vị Phật), và sattva có nghĩa là “chúng sinh”. 

Như vậy, Bodhisattva đề cập đến hoặc một người đang mưu cầu giác ngộ (Bodhi) hoặc “một chúng sinh giác ngộ” (Bodhi being), nghĩa là chúng sinh ấy chắc chắn sẽ chứng đắc quả vị Phật. Bộ Bách Khoa Phật Giáo lại có định nghĩa: “Bodhisattva (Pāli: Bodhisatta) là một chúng sinh thiết tha đối với sự giác ngộ (Bodhi)”. Theo từ nguyên, Bodhi gốc từ chữ Budh, nghĩa là “sự tỉnh ngộ” hay “giác ngộ”. Còn “sattva”, bắt nguồn từ saint, hiện tại phân từ của nó mang ý nghĩa là “sự hiện hữu” hay “sự tồn tại” (to be or being); hay theo nghĩa đen, “sattva là một chúng sinh”. Do vậy, thuật ngữ này mang ý nghĩa là “một chúng sinhbản chất là giác ngộ”, hoặc “một vị Phật tương lai”. Cũng có sự gợi ý rằng thuật ngữ satta của Pāli có thể bắt nguồn từ Bodhi và satta (Sanskrit Sakta có gốc từ Sanj), nghĩa là “một người gắn bó hay khao khát để đạt đến sự giác ngộ”. 

Trong một nghiên cứu về giáo lý Bồ tát, giáo sư Har Dayal cho rằng sattva (giống đực) có thể mang ý nghĩachúng sinh hay hữu tình (Skt. Dicy. M. W). Từ Pāli “satta” có thể có nghĩa là chúng sinh, hay sinh vật, hữu tình, hay con người. Hầu hết các học giả chấp nhận sự giải thích này. 

Như vậy, từ Bodhisatta trong kinh điển Pāli dường như có nghĩa là “một chúng sinh giác ngộ”. Tuy thế, satta ở đây không hàm nghĩa là một hữu tình bình thường, và hầu như từ ngữ ấy liên hệ chắc chắn với từ của Vedic “Krieger”, có nghĩa là “một người mạnh mẽ hay dũng cảm, tức anh hùng hay chiến sĩ”. Như vậy, Bồ tát có thể dịch là “giác hữu tình” hay “hữu tình giác”, nghĩa là một chúng sinh hữu tình trong quá trình tu tập theo giáo lýNhư Lai đã giảng dạy đạt được giác ngộ, sau đó đem những điều đã giác ngộ đi giáo hóa, chỉ dạy cho những người khác cũng được giác ngộ như mình. Thể hiện tinh thần tự giác giác tha, tự độ độ tha

Có thể nói, một trong những học thuyết nổi bật của Phật giáo Đại thừahọc thuyết Bồ tát, mặc dù khái niệm về thuật ngữ này đã xuất hiện trước đó trong Phật giáo Theravāda nhưng với việc xây dựng hình tượng Bồ tát lý tưởng đi cùng với những phương pháp tu tậphạnh nguyện độ sanh, Phật giáo Đại thừa Phật giáo thể hiện tinh thần nhập thế rất tích cực. Vì thế, hầu hết các bản kinh Đại thừa đều đề cập đến hình ảnh của các vị Bồ tát và những đặc điểm của Ngài, nhất là Kinh Lăng Già

NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA VỊ BỒ TÁT

Kinh điển Đại thừa vẽ nên một hình tượng vị Bồ tát đi vào đời hoằng hóa với nhiều phương tiện khác nhau. Nếu như trong Kinh Hoa Nghiêm, Bồ tát đóng vai trò như một ngọn đèn soi sáng chúng sanh; trong Kinh Pháp Hoa (phẩm Phổ Môn), Bồ tát có thể hóa hiện nhiều thân hình để hóa độ chúng sanh, là cho họ được lợi ích an vui; thì trong Kinh Lăng Già, Bồ tát vì muốn cứu độ tất cả chúng sanh đạt đến Niết bàn nên phát nguyện ở lại thế gian nhiều đau khổ này để làm lợi ích cho tất cả chúng sanh. Đời sống, hành tác cũng như những đặc điểm của một vị Bồ tát được Kinh Lăng Già đề cập cụ thể qua các phần như: Sự tự tu và gia trì lực (Adhishthana); Sự thanh tịnh (Visuddhi) tâm; Ý sinh thân (Manomayakāya); Vị Bồ tátđời sống xã hội; Vị Bồ tát không bao giờ nhập Niết-bàn; Các bổn nguyện của vị Bồ tát và các công dụng hạnh của Ngài; Mười bổn nguyện của Bồ tát Phổ Hiền (Samantabhadra). 

Thứ nhất, sự tự tu và gia trì lực: Đây là hai điều thiết yếu quan trọng mà một vị Bồ tát cần phải có. Theo Kinh Lăng Già, sự trang bị về luận lý và tâm lý phải được gia tăng lên nữa bằng sự tu tập thực tiễn mà không có sự tu tập này thì vị Bồ tát không thể khác gì hơn một vị triết gia lý niệm. Vị Bồ tát phải tìm một chỗ yên lặng và đơn độc mà tự tu tập nhờ vào trí tuệ của mình. Một điểm khác biệt giữa Phật giáo Bộ pháiPhật giáo Đại thừa là: Nếu Phật giáo bộ phái chủ trương chỉ có tự lực không cần phụ trợ bên ngoài, thì Đại thừa cho rằng có tha lực. Lăng Già gọi tha lực ấy là “Adhiasthāna” (gia trì lực). 

Thứ hai, sự thanh tịnh tâm: Để thành tựu cứu cánh giác ngộ tuyệt đối, vị Bồ tát phải thanh lọc tâm ý của mình cũng như tất cả chúng sanh với sự hộ trì bằng gia trì lực của tất cả chư Phật. Vị nào thực sự là hiện thân của hạnh nguyện làm lợi ích người khác thì bao giờ cũng nghiêng về việc thức tỉnh họ chứng ngộ. Kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đa và các kinh khác có đề cập, sự phát khởi ý tưởng chứng ngộ luôn được nói đến như là bước đầu tiên tiến đến sự đạt đến chân ý của Như Lai tính. Vì thế, Bồ tát Mahāmati đã nêu lên một câu hỏi về sự thanh tịnh: “Sự tẩy sạch mà Đức Phật thực hiện là ngay liền hay dần dần, sự tẩy sạch cho tất cả các chúng sinh khỏi những lậu hoặc của tâm mà theo đó họ chấp vào cái thực tính của một thế giới đối tượng?”.

Thứ ba, ý sinh thân, chúng ta không thấy có sự xác định rõ ràng nào về học thuyết tam thân trong Kinh Lăng Già nhưng tất cả các ý niệm tạo thành như có thể nhận ra được như sau đây: Đức Phật Pháp tính, Phật Sở Lưu và Phật Biến Hóa rõ ràngtương ứng với tam thân sau này là pháp thân, ứng thânhóa thân. Ý sinh thân (Manomayakāya) là năng lực di chuyển khắp nơi nhanh chóng không bị trở ngại, theo như ý muốn. Kinh Lăng Già liệt kê ba loại ý sinh thân: 1. Cái ý thân đạt được trong hạnh phúc của Tam-ma-địa; 2. Cái ý thân sinh ra từ cái biết về sự tự tính của Pháp; 3. Cái ý thân mà các hành động của nó có thể toan tính được, được sinh ra trong hàng Thánh giả. Trong ba loại này, loại thứ hai quan trọng nhất, và từ khi Thân được nêu ra mà không có các định tính thì thường được hiểu là cái thân thuộc loại thứ hai này. 

Thứ tư, vị Bồ tátđời sống xã hội, chủ đề trung tâm của Kinh Lăng Già được giải thích là sự đạt tới trí tuệ thâm nhập vào tâm thức thâm kín nhất. Phật giáotôn giáo có mặt thực hànhxã hội, nếu có mặt này mà không có mặt kia thì sẽ mất đi lý do hiện hữu của đạo Phật. Vì vậy, Kinh Lăng Già cũng chuẩn bị cho Bồ tát sứ mạng của bản thân như là một thành viên trong cộng đồng. Một vị Bồ tát phải phát nguyện rộng độ tất cả chúng sanh, làm lợi ích cho hết thảy các loài hữu tình, xem họ như người thân, như cha mẹ, vợ con, anh em hay như chính bản thân mình mà hóa độ, không khởi tâm phân biệt hay lợi dụng. “Tuy thế trái tim đại bi vẫn khởi dậy trong họ” đây là đoạn quan trọng trong triết học Lăng Giàtoàn bộ giáo lý Đại thừa. Bồ tát lấy đại bi tâm làm đầu, yêu thương chúng sanh như tình mẹ thương con và nương vào chúng sanh để tu tập tiến đến giải thoát giác ngộ. Những luật tắc và những thệ nguyện của vị Bồ tát, cũng như việc thực hành Bồ tát đạo, được giảng giải khắp các kinh luận Đại thừa. Nói chung, Bồ tát được xem là mẫu người có nhân cách lý tưởng và cao thượng, những giới luật Bồ tát được xem như những chuẩn tắc đưa đến đời sống đạo đức, xây dựng một xã hội tốt đẹp, cuối cùng là đưa hành giả đến sự giải thoát. Bồ tát đi vào đời, vừa tu tập hoàn thiện bản thân vừa làm cho thế gian tốt đẹpnhân bản hơn đúng với lời Đức Phật dạy trong Kinh Trường Bộ (Kinh Đại Bổn): “Này các Tỳ kheo, hãy đi cùng khắp vì hạnh phúc cho đại chúng, vì an lạc cho đại chúng, vì lòng thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc, vì lợi ích, vì an lạc cho loài người, loài trời. Chớ có đi hai người cùng một chỗ… Hãy nêu rõ đời sống phạm hạnh hoàn toàn thanh tịnh. Có những chúng sanh ít nhiễm bụi đời, nếu không được nghe chánh pháp sẽ bị nguy hại. Nếu được nghe sẽ thâm hiểu chánh pháp”. 

“Do bởi mười vô tận nguyện của Ngài, Ngài sẽ đưa tất cả chúng sinh đến sự chín muồi và Ngài hiện ra nhiều hình tướng khác nhau đáp ứng theo yêu cầu của mọi chúng sinh mà sẽ không bao giờ biết ngưng công tác mình ở đâu cả; và tuy vậy, tâm Ngài vẫn luôn an trụ trong trạng thái tự chứng và trong cả sự an hưởng thiền định viên mãn”.

Thứ năm, vị Bồ tát không bao giờ nhập Niết bàn: Kinh Lăng Già đề cập đến năm đẳng cấp chúng sanh: những chúng sanh thuộc hàng Thanh văn, hàng Bích chi Phật, hàng Như Lai, các chúng sanh không thuộc đẳng cấp rõ ràng và các chúng sinh không thuộc những đẳng cấp trên. Bởi vì hạnh nguyện của vị Bồ táthóa độ tất cả chúng sinh không cùng tận, cho nến nếu còn một chúng sanh đau khổ, còn một chúng sinh chưa giác ngộ trong thế giới này thì các Ngài sẽ không nhập Niết bàn: “Do bởi mười vô tận nguyện của Ngài, Ngài sẽ đưa tất cả chúng sinh đến sự chín muồi, và Ngài hiện ra nhiều hình tướng khác nhau đáp ứng theo yêu cầu của mọi chúng sinh mà sẽ không bao giờ biết ngưng công tác mình ở đâu cả; và tuy vậy, tâm Ngài vẫn luôn an trụ trong trạng thái tự chứng và trong cả sự an hưởng thiền định viên mãn”. 

Thứ sáu, bổn nguyện của vị Bồ tát và các vô công dụng hạnh của Ngài: Vị Bồ tát có mười hạnh nguyện lớn lập thệ rộng lớn phát khởi vào lúc khởi đầu sự nghiệp tâm linh, tức là khi Ngài đã nhập địa Bồ tát thứ nhất hay đúng hơn là đời sống Phật, được gọi là Hoan hỷ địa, trải qua mười địa như vậy Ngài đạt đến cuộc sống vô công dụng hạnh. Các vị luôn mang trong mình một trái tim đại bi cứu độ chúng sanh, đó luôn là động lực mạnh mẽ nhất trong suốt quá trình tâm linh của các Ngài. Khi các Ngài đạt đếncông hạnh tức là đang đứng trong Bất động địa, vị Bồ tát có thể chứng được Vô sinh pháp nhẫn

Thứ bảy, mười bổn nguyện của Bồ tát Phổ Hiền: 1. Đảnh lễ tất cả chư Phật. 2. Tán thán tất cả chư Phật. 3. Thực hiện đủ mọi thứ cúng dường, nhất là những gì có thể gọi đủ là cúng dường pháp. 4. Sám hối tất cả các tội lỗi mà các vị đã từng phạm. 5. Chân thành vui mừng vì những công hạnh mà người khác đạt được. 6. Thỉnh cầu Đức Phật chuyển pháp luân. 7. Thỉnh cầu Đức Phật trú thế trong thế giới này. 8. Luôn luôn học từ cuộc sống của Đức Phật. 9. Chăm lo cho tất cả hạnh phúc tâm linh của tất cả chúng sanh. 10. Hồi hướng tất cả công đức của các vị đến sự phát triển thiện và ngăn chặn ác. Đây là mười lời nguyện, và khi thực hành một vị Bồ tát sẽ không biết đến khi nào mới ngưng công việc của các Ngài. Vì việc thực hành không giới hạn không gian thời gian, chừng nào còn một chúng sanh sót lại trong thế gian phải được cứu độ, chừng nào còn có một ham muốn xấu xa thì phải được tiêu diệt. Thế nên, Bồ tát sẽ làm việc không ngừng, không gián đoạn bằng thân, khẩu, ý cho đến lúc tận cùng của thế giới

NHẬN ĐỊNH

Thật vậy, bản chất cốt lõi của vị Bồ tátlấy lòng đại bi làm đầu, xem tất cả chúng sanh là đối tượng của lòng đại từ bi đó. Với những hạnh nguyện lớn lao, các Ngài đi vào đời cứu độ nhân sinh, chưa bao giờ rời bỏ bất kỳ một chúng sanh đau khổ nào lại phía sau cuộc hành trình của mình. Tuệ quán của các Ngài là nhận thứctính không của vạn pháp, những việc cứu độ của họ thì không nằm ngoài thế gian đau khổ này. Điều kiện sống của vị Bồ tát là ở nơi đời sống của những con người bình thường, và lòng từ bi sẽ trở thành chất liệu nền tảng cho tất cả hành động. Vì vậy, con đường Bồ tát không 6 phải là con đường chỉ trải toàn hoa hồng, êm đềm phẳng lặng, bởi vì cuộc đời vốn gập gành và đầy những chướng ngại trên mọi lối đi. Học giả D.T.Suzuki đã nhận định: “Phật giáo là một tôn giáo và như mỗi tôn giáo có mặt xã hộitu tập tâm linh, không có điều này thì Phật giáo sẽ mất lý do để tồn tại. Kinh Lăng Già (Laṇkāvatāra sutra) cũng chuẩn bị cho Bồ tát với sứ mệnh như là một trong những thành viên của cộng đồng xã hội, hoạt động từ thiện hữu ích chúng sanh. Trong khi mục tiêu của Tiểu thừa không ngoài giải thoát cá nhân, đạt A-la-hán, một cuộc sống thánh thiện an tĩnh. Đây là sự khác nhau giữa Đại thừa và Tiểu thừa…”. 

Trong Đại thừa Phật giáo, Bồ tát được chia làm ba hạng: Trí tuệ Bồ tát (Paññādhika), Đức tin Bồ tát (Saddhādhika) và Tinh tấn Bồ tát (Viriyādhika). Trí tuệ Bồ tát là bậc ít thiên về lòng nhiệt thành sùng đạo nhưng kiên trì tinh tấn trên con đường phát triển trí tuệ. Đức tin Bồ tát là bậc sùng mộ, tin tưởng nơi lễ bái thờ phụng. Tinh tấn Bồ tát là bậc thường dựa vào nỗ lực tinh tấn của bản thân. Đức Phật được tôn sùng là bậc Đại Trí tuệ, Ngài đã ở trong vô lượng kiếp sâu xa thực hành Bồ tát đạo đến khi công đức viên mãnthành tựu quả vị Phật Đà. Dù ở vị trí nào, các Ngài luôn luôn hoạt động, làm việc không ngừng nghỉ, không mệt mỏi để cứu độ chúng sinh. Các Ngài vượt ra ngoài mọi ham muốn, không màng đến danh thơm tiếng tốt mà chỉ chú trọng đến sự tận tâm phục vụ. Ai biết, ai hay điều đó không quan trọng, chẳng màng đến tiếng khen chê của nhân thế, các Ngài chỉ một lòng thực hiện hạnh nguyện tự độ độ tha của mình. Vị Bồ tát quên mình trong khi phục vụ chúng sinh, dẫu có hi sinh cả tính mạng. Vị Bồ tát ước mong cho thế gian luôn tốt đẹp, yêu thương chúng sanh như con duy nhất của mình. Bồ tát hòa mình với tất cả mọi người: “Tâm bi của Bồ tát nhằm thực hiện tánh cách bình đẳng giữa Ngài và người khác và cũng đặt mình trong kẻ khác”. Trong quá trình thực hành Bồ tát đạo, các vị không còn ý niệm về cái “tôi”, không có tâm phân biệt. Ngài đồng hóa với tất cả, lấy thiện trả ác, lấy lành trả dữ, giúp đỡ tất cả với trái tim yêu thương vô bờ bến: “Bị nhục mạ nhưng không nhục mạ lại, bị đánh đập nhưng không đánh đập lại, bị làm phiền nhưng không phiền nhiễu ai, Bồ tát một mực giữ đức khoan hồng. Tựa như đất mẹ trầm lặng, Bồ tát âm thầm chịu đựng tất cả những lỗi lầm của kẻ khác”. 

Các vị luôn mang trong mình một trái tim đại bi cứu độ chúng sanh, đó luôn là động lực mạnh mẽ nhất trong suốt quá trình tâm linh của các Ngài. Khi các Ngài đạt đếncông hạnh tức là đang đứng trong Bất động địa, vị Bồ tát có thể chứng được Vô sinh pháp nhẫn.

KẾT LUẬN

Kinh Lăng Già cho thấy rõ những đặc điểmphạm vi hành hoạt của Bồ tát vô cùng đa dạng. Trong thời đại ngày nay, nhiệm vụ của các Ngài càng trở nên phong phú hơn trong xã hội với nhiều hình ảnh, nhiều phương tiện khác nhau mà các Ngài đã thực hiện để đến với cuộc đời. Một ví dụ cụ thể là trong đại dịch Covid-19 vừa qua, trước tiếng kêu than của những người bệnh, những người thực hiện công hạnh như vị Bồ tát đã xuất hiện. Đó có thể là các vị bác sĩ, y tá, thanh niên phát nguyện đem bánh mì đi khắp thành phố cho những người lang thang, sinh viên tình nguyện, các chiến sĩ công an, bộ đội kiểm soát các chốt kiểm dịch, phân phối hàng cứu trợ… và trong đó có cả hình bóng của các “chiến sĩ áo nâu” khoác lên mình chiếc áo blouse trắng hay bộ đồ bảo hộ xông pha nơi tuyến đầu chống dịch. Đông đảo chư Tăng Ni, Phật tử khắp mọi miền đất nước theo tiếng gọi của Tổ quốc đã tình nguyện lên đường chống dịch với nghĩa cử cao đẹp “Lạy Phật con đi phụng sự nhân sinh”. Các vị đã đem đến nguồn năng lượng tích cực, đồng sức đồng lòng chung tay cùng với cả dân tộc chống đại dịch Covid-19.

Tất cả đó là những tấm lòng đại bi của một vị Bồ tát thực thụ, các vị đau với nổi đau của chúng sinh, khóc với nỗi lầm than của chúng sinh, buồn với những mất mát bi thương của những kiếp người cơ cực. Lý tưởng Bồ tát đã, đang và sẽ hóa hiện ở giữa cuộc đời với nhiều hình thức khác nhau để san sẻ tình thương đến tất cả chúng sinh

 

Tài liệu tham khảo

1. Thích Minh Châu (dịch, 2018), Kinh Trường Bộ, kinh Đại Bổn, Hà Nội, Nxb. Tôn giáo
2. Nārada Mahā Thera, Phạm Kim Khánh (Việt dịch, 2019), Đức PhậtPhật pháp, Nxb. Tổng hợp TP HCM. 
3. Daisetz Teitaro Suzuki, Tỳ kheo Thích Chơn Thiện – Trần Tuấn Mẫn (dịch, 2005), Nghiên cứu Kinh Lăng Già, Nxb. Tôn giáo
4. D.T.Suzuki, Studies in the Laṇkāvatāra Sutra, Routledge and Kagan Pual LTD, London, rpt. 1975, tr.214. 
5. Thích Viên Trí (2002), Khái niệm về Bồ tát Quan Thế Âm, Nxb. Tôn giáo.
(Trích: Tạp chí Văn hóa Phật giáo 406)

Tìm Hiểu Hạnh Nguyện Bồ Tát Qua Góc Nhìn Kinh Lăng Già
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 153)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 230)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 256)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 289)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 358)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 564)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 630)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 571)
Tóm tắt: Phật giáo là tôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 634)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 563)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 500)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 563)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 638)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 653)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 745)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 565)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 465)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 548)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 622)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 552)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 560)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 663)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 679)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 658)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 726)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 766)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 737)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 928)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 786)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1318)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 871)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1032)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 798)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1018)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 961)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 930)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1073)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1325)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 1680)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 925)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1099)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 920)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 786)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 908)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 947)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1359)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1106)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1141)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 896)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 1033)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1469)
Con người sống trong một thế giới mà đối với anh ta dường như là một cái gì đó hoàn toàn tách biệt với chính anh ta.
(Xem: 1358)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1348)
Bất hạnh lớn nhất của Phật tử chúng ta là sinh ra vào một thời không có Phật. Một mất mát lớn, gần như không gì có thể thay thế. Hơn thế nữa, bất hạnh này đang trở thành một nỗi ám ảnhchúng ta không thể nào dứt bỏ trong cuộc hành trình dài, đơn độc qua bao vòng xoáy của kiếp người chúng ta không biết mình đang ở đâu và sẽ đi về đâu trong chuyến di này.
(Xem: 969)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại, tôi trích đoạn trong tác phẩm lịch sử của tôi đang viết chưa hoàn thiện, có nhắc đến công trạng của ngài, như dâng lên tấm lòng tưởng niệm đến bậc Long tượng Phật giáo.
(Xem: 1349)
Trúc Đạo Sinh, người họ Ngụy 魏, sinh ra[1] khi gia đình cư ngụBành Thành 彭城, nay là Từ Châu 徐州 phía Bắc tỉnh Giang Tô 江蘇. Nguyên quán gia đình trước ở miền Tây Nam, tỉnh Hà Bắc, sau chuyển về huyện Cự Lộc 钜鹿.
(Xem: 1255)
Nói về vấn đề “trước nhất”, Kinh Phạm Võng với nội dung cốt yếu giới thiệu về quan điểm của các phái ngoại đạo, chính là bộ kinh đầu tiên trong Trường Bộ.
(Xem: 1215)
Khi học sinh từng người, từng người tốt nghiệp rời khỏi Phật học viện rồi, tôi bắt đầu xây dựng Biệt phân viện[1]khắp nơi, để ...
(Xem: 1580)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển. Phật thuyết từ chứng ngộ
(Xem: 1703)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant