Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ví Dụ Về Con Kiến

06 Tháng Mười Hai 202318:18(Xem: 907)
Ví Dụ Về Con Kiến

Ví Dụ Về Con Kiến

Thích Tâm Nhãn



Dẫn nhập:

Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua, nhưng tâm vẫn không đạt được tri kiến gì, lúc ấy Siddhattha bừng tỉnh, con đường khổ hạnhcon đường sai lầm, rồi ông nhớ lại: “Trong khi phụ thân Ta, thuộc giòng Sakka (Thích-ca) đang cày và Ta đang ngồi dưới bóng mát cây diêm-phù-đề (jambu), Ta ly dục, ly pháp bất thiện, chứng và trú thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ. Khi an trú như vậy, Ta nghĩ: Đạo lộ này có thể đưa đến giác ngộ chăng? Và tiếp theo ý niệm ấy, ý thức này khởi lên nơi Ta: Đây là đạo lộ đưa đến giác ngộ”.

Từ đó, pháp hành thiền tuệ mà đức Thích Tôn quán chiếu chứng ngộ, được truyền dạy cho các hàng đệ tử tại gia, xuất gia, cho cả chư thiên, Phạm thiên… với nhiều hình thức, qua nhiều phương pháp. Kinh Ví dụ về con kiến cũng là giáo lý nổi bật sắc thái thiền quán dạy các Tỳ-kheo tu tập để đoạn tận lậu hoặc.

Xin giới thiệu kinh “Ví dụ về con kiến” (Phật thuyết nghị dụ kinh 佛說蟻喻經 – Pipīlikopamāna-sūtra) 1 quyển, do ngài Thí Hộ (Danapāla, ?-1017), người nước Ô-điền-nẵng (Udyāna, ở giải đồi cao phía Nam dãy núi Hindu kush ngày nay) Bắc Ấn Độ, dịch thời Bắc Tống (A.D. 960-1127), tạng Đại Chánh 1, số hiệu 95, trang 918.

Toát yếu nội dung kinh:

Bấy giờ, Thế Tôn phóng luồng hào quang lớn, chiếu sáng rực rỡ, rồi bảo các Bí-sô:

Các thầy nên biết, vào một thời có một bầy kiến, ban đêm thì bốc khói, ban ngày thì lửa cháy. Có một Bà-la-môn thấy sự việc như vậy mới nói rằng: “Nếu ai cầm dao bén thì chắc chắn có thể phá tan bầy kiến này.” Vừa nói xong lại thấy một con rùa lớn, vị Bà-la-môn nói: “Nếu ai cầm dao bén thì có thể phá được nó.” Sau đó lại thấy con sứa, con đĩa, nhiều côn trùng A-tây-tô-na, một con rắn lớn, một côn trùng Noa- đà-bát-tha, một côn trùng Tản-ca-phù-tra, vị Bà-la-môn cũng nói như trước. Lại thấy con rồng lớn, vị Bà-la-môn nói: “Những điều ta thấy thế nào duy chỉ có Thế Tôn mới biết được?” Ông ta đi đến chỗ một vị Bí-sô, trình bày lại mọi chuyện và nói: “Nhờ thầy hỏi Phật, giúp tôi gỡ mối nghi ngờ trong tâm. Đức Phật dạy gì tôi sẽ ghi nhớ trong lòng. Vì tôi chưa thấy Sa-môn, Bà-la-môn, trời, người thế gian đem nghĩa này thưa hỏi đức Phật, nên không thể khai mở được sự nghi ngờ trong lòng.”

Khi ấy, vị Bí-sô nhận lời đi đến chỗ Ta, đảnh lễ rồi đứng qua một bên trình bày lại sự việc và thưa hỏi:

“Như Bà-la-môn thấy bầy kiến, vì sao nửa đêm phun khói, ban ngày lửa cháy, việc ấy như thế nào? Lại thấy con rùa lớn, con sứa, con đỉa, côn trùng A-tây-tô-na, con rắn lớn, trùng Noa- đà-bát-tha, trùng Tản-ca-phù-tra, con rồng lớn. Những hiện tượng vị ấy thấy là sao? Còn Bà-la-môn kia là người thế nào? Sao gọi là dao bén phá tan? Mong Thế Tôn giải thích cho”.

Này các Bí-sô! Lúc đó Ta nói với vị Bí-sô kia rằng: Bầy kiến chính là thân ngũ uẩn của tất cả chúng sanh. Nửa đêm phun khói tức là chúng sanh khởi các suy nghĩ. Ban ngày lửa cháy tức là chúng sanh tùy theo suy nghĩ mà khởi lên thân nghiệp, ngữ nghiệp. Con rùa lớn là năm pháp ô nhiễm. Con sứa là sự phẫn nộ. Con đĩa là sự tham lam, ghen ghét. Côn trùng A-tây-tô-na là pháp ngũ dục. Con rắn là vô minh. Côn trùng Noa-đà-bát-tha là sự nghi hoặc. Côn trùng Tản-ca-phù-tra là sự ngã mạn. Con rồng là các vị A-la-hán. Vị Bà-la-môn là Như Lai Ứng cúng Chánh đẳng chánh giác. Sự sắc bén của con dao là người có trí. Con dao là trí tuệ. Phá tan là phát khởi thắng hạnh tinh tấn.

Này các Bí-sô! Ý của các thầy thế nào? Những hiện tượng mà vị ấy thấy, nói một cách tóm tắt, là tất cả thân ngũ uẩn của chúng sanh đều do tinh cha huyết mẹ bất tịnh mà ngưng kết sinh ra, tứ đại hợp thành, sắc tướng hư giả, thô ác hạ liệt, chứa nhóm sự khổ não, rốt cuộc cũng bị tàn hoại. Nhưng các chúng sanh không hề hay biết, ngày đêm khởi lên suy nghĩ, tạo ra nghiệp thân, ngữ bất thiện, bị năm thứ phiền não che lấp, đắm trước nơi ngũ dục, tăng trưởng sự vô minh, sanh tâm ngã mạn; đối với các Thánh pháp nghi hoặc không quyết định, sân hận, tham lam, ghen ghét phát khởi trong từng niệm, không mong cầu giải thoát. Do vậy mà Như Lai Ứng cúng Chánh đẳng chánh giác muốn tất cả những người trí lập hạnh tinh tấn, tu tập trí tuệ, đoạn trừ phiền não, chứng được Thánh quả.

Này các Bí-sô! Khi chấm dứt được các hữu lậu sẽ chứng quả A-la-hán nên nói giống như rồng.

Này các Bí-sô! Chư Phật Thế Tônquá khứvị lai, với lòng bi mẫn thương yêu chúng sanh, muốn tất cả đoạn trừ phiền não, chứng Thánh quả và vì hàng Thanh văn mà rộng nói nghĩa này. Nay Ta cũng giống như chư Phật, đem nhân duyên này giảng thuyết cho các thầy nghe. Các thầy hãy ở nơi tịch tĩnh như đồng hoang, nhà trống, giữa núi, dưới gốc cây, trong hang, am thất… mà lắng lòng tư duy quan sát nghĩa này, đừng phóng túng, sanh tâm thối chuyển. Cũng nên khai thị, giáo đạo, truyền dạy rộng rãi cho người khác tu tập được lợi ích lớn.

Các vị Bí-sô nghe Phật giảng dạy đều tín thọ phụng hành.

Lời kết:

Bản kinh này được xếp trong A-hàm bộ tương đương Pāli: kinh Gò mối (Vammīka sutta – The ant-hill) 23, Trung bộ kinh (Majjhimanikāya) (Nam truyền đại tạng kinh 9 [Hán dịch], Trung bộ kinh 1, tr. 202). Cả hai bản kinh đều có nội dung gần giống nhau.

Trong kinh Gò mối kể rằng: “Một đêm nọ, một vị trời xuất hiện đến hỏi tôn giả Cưu-ma-la Ca-diếp (Kumara Kassapa [Ca-diếp đồng tử]):

Có gò mối ban đêm phun khói, ngày chiếu sáng; một Bà-la-môn bảo kẻ trí hãy cầm gươm đào lên. Kẻ trí đào lên thấy: then cửa, con nhái, cái chĩa hai, một cái lọc, một con rùa, con dao phay, miếng thịt. Cuối cùng gặp một con rắn hổ, Bà-la-môn bảo kẻ trí hãy để yên con rắn và đảnh lễ nó. Vị trời bảo Tỳ-kheo đến nhờ Phật giải thích ẩn ngữ trên, vì chỉ có Phật mới giải được.

Đức Phật giải thích: Gò mối là thân tứ đại, đêm phun khói  là suy nghĩ, ngày chiếu sáng là ban ngày thực hiện những gì ban đêm suy nghĩ. Bà-la-môn là đức Như Lai, bậc Chánh đẳng giác. Kẻ trí là Tỳ-kheo bậc hữu học. Cây gươm là trí tuệ bậc Thánh. ‘Đào’ là trí tuệ tinh tấn. Then cửa là vô minh; ‘đem then cửa lên’ là từ bỏ vô minh. Con nhái là phẫn nộ hiềm hận; cái chĩa hai là nghi hoặc; đồ lọc là năm phiền não trói buộc che lấp. Con rùa là năm thủ uẩn; dao phay là ngũ dục; miếng thịt là hỷ tham. ‘Đào lên’ có nghĩa là từ bỏ tất cả các thứ ấy. Con rắn hổ là vị đã diệt lậu hoặc, đáng đảnh lễ.”

Cả hai kinh này đều thuộc thể loại thí dụ trong văn học Phật giáo Nguyên thủy; đức Phật thường dùng hình ảnh thí dụ giảng dạy để giúp người nghe dễ dàng so sánh, hiểu rõ nội dung giáo pháp. Trong bản kinh có những hình ảnh thí dụ về côn trùng như trùng A-tây-tô-na, trùng Noa-đà-bát-tha… ngài Thí Hộ chỉ mới phiên âm, có thể ngài chưa truy nguyên được nguồn gốc của nó nên không dịch nghĩa. Chúng ta tạm hiểu những côn trùng ấy là loại trùng độc, được đức Phật đưa ra ảnh dụ: Trùng A-tây-tô-na là pháp ngũ dục. Trùng Noa-đà-bát-tha là sự nghi hoặc. Trùng Tản-ca-phù-tra là sự ngã mạn.

Tuy nội dung trong kinh đơn giản, ngắn gọn nhưng là đề tài thiền quán hướng dẫn cho các Tỳ-kheo tu tập trí tuệ vô ngã, và có chánh kiến xả bỏ ngã chấp, giả thân ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức: thân thể, cảm giác, tri giác, tâm hành, và nhận thức); thanh tịnh ba nghiệp, đoạn trừ năm thứ phiền não tham dục, sân hận, hôn trầm, tán loạn, nghi ngờ pháp… lần lượt đoạn trừ tất cả phiền não, tà kiến, các tâm cấu uế, cho đến chứng đắc Thánh quả.

Trong kinh Gò mối còn ghi lại: Vào thời gian đức Phật thuyết kinh này, tôn giả Cưu-ma-la Ca-diếp đang ở địa vị hữu học, sau khi thiền quán về đề tài này liền chứng đắc quả vị A-la-hán.

(Tập san Pháp Luân, số 62)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1301)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1365)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
(Xem: 1598)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
(Xem: 1725)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1683)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 1083)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1578)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1557)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1738)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 2016)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1624)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1441)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1446)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1629)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1216)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1339)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1347)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1745)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1703)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 3115)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1888)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1433)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1265)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1355)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1470)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1366)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1960)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1741)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1945)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1881)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2447)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1831)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2198)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2311)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2376)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1917)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 2030)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 2093)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 2026)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 2656)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1993)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1950)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 2001)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1966)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2222)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2375)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 2071)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2187)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1948)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1988)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2486)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2389)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 4143)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2550)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3284)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2531)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2103)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1841)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3355)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant