Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Ví Dụ Về Con Kiến

Wednesday, December 6, 202318:18(View: 1509)
Ví Dụ Về Con Kiến

Ví Dụ Về Con Kiến

Thích Tâm Nhãn



Dẫn nhập:

Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua, nhưng tâm vẫn không đạt được tri kiến gì, lúc ấy Siddhattha bừng tỉnh, con đường khổ hạnhcon đường sai lầm, rồi ông nhớ lại: “Trong khi phụ thân Ta, thuộc giòng Sakka (Thích-ca) đang cày và Ta đang ngồi dưới bóng mát cây diêm-phù-đề (jambu), Ta ly dục, ly pháp bất thiện, chứng và trú thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ. Khi an trú như vậy, Ta nghĩ: Đạo lộ này có thể đưa đến giác ngộ chăng? Và tiếp theo ý niệm ấy, ý thức này khởi lên nơi Ta: Đây là đạo lộ đưa đến giác ngộ”.

Từ đó, pháp hành thiền tuệ mà đức Thích Tôn quán chiếu chứng ngộ, được truyền dạy cho các hàng đệ tử tại gia, xuất gia, cho cả chư thiên, Phạm thiên… với nhiều hình thức, qua nhiều phương pháp. Kinh Ví dụ về con kiến cũng là giáo lý nổi bật sắc thái thiền quán dạy các Tỳ-kheo tu tập để đoạn tận lậu hoặc.

Xin giới thiệu kinh “Ví dụ về con kiến” (Phật thuyết nghị dụ kinh 佛說蟻喻經 – Pipīlikopamāna-sūtra) 1 quyển, do ngài Thí Hộ (Danapāla, ?-1017), người nước Ô-điền-nẵng (Udyāna, ở giải đồi cao phía Nam dãy núi Hindu kush ngày nay) Bắc Ấn Độ, dịch thời Bắc Tống (A.D. 960-1127), tạng Đại Chánh 1, số hiệu 95, trang 918.

Toát yếu nội dung kinh:

Bấy giờ, Thế Tôn phóng luồng hào quang lớn, chiếu sáng rực rỡ, rồi bảo các Bí-sô:

Các thầy nên biết, vào một thời có một bầy kiến, ban đêm thì bốc khói, ban ngày thì lửa cháy. Có một Bà-la-môn thấy sự việc như vậy mới nói rằng: “Nếu ai cầm dao bén thì chắc chắn có thể phá tan bầy kiến này.” Vừa nói xong lại thấy một con rùa lớn, vị Bà-la-môn nói: “Nếu ai cầm dao bén thì có thể phá được nó.” Sau đó lại thấy con sứa, con đĩa, nhiều côn trùng A-tây-tô-na, một con rắn lớn, một côn trùng Noa- đà-bát-tha, một côn trùng Tản-ca-phù-tra, vị Bà-la-môn cũng nói như trước. Lại thấy con rồng lớn, vị Bà-la-môn nói: “Những điều ta thấy thế nào duy chỉ có Thế Tôn mới biết được?” Ông ta đi đến chỗ một vị Bí-sô, trình bày lại mọi chuyện và nói: “Nhờ thầy hỏi Phật, giúp tôi gỡ mối nghi ngờ trong tâm. Đức Phật dạy gì tôi sẽ ghi nhớ trong lòng. Vì tôi chưa thấy Sa-môn, Bà-la-môn, trời, người thế gian đem nghĩa này thưa hỏi đức Phật, nên không thể khai mở được sự nghi ngờ trong lòng.”

Khi ấy, vị Bí-sô nhận lời đi đến chỗ Ta, đảnh lễ rồi đứng qua một bên trình bày lại sự việc và thưa hỏi:

“Như Bà-la-môn thấy bầy kiến, vì sao nửa đêm phun khói, ban ngày lửa cháy, việc ấy như thế nào? Lại thấy con rùa lớn, con sứa, con đỉa, côn trùng A-tây-tô-na, con rắn lớn, trùng Noa- đà-bát-tha, trùng Tản-ca-phù-tra, con rồng lớn. Những hiện tượng vị ấy thấy là sao? Còn Bà-la-môn kia là người thế nào? Sao gọi là dao bén phá tan? Mong Thế Tôn giải thích cho”.

Này các Bí-sô! Lúc đó Ta nói với vị Bí-sô kia rằng: Bầy kiến chính là thân ngũ uẩn của tất cả chúng sanh. Nửa đêm phun khói tức là chúng sanh khởi các suy nghĩ. Ban ngày lửa cháy tức là chúng sanh tùy theo suy nghĩ mà khởi lên thân nghiệp, ngữ nghiệp. Con rùa lớn là năm pháp ô nhiễm. Con sứa là sự phẫn nộ. Con đĩa là sự tham lam, ghen ghét. Côn trùng A-tây-tô-na là pháp ngũ dục. Con rắn là vô minh. Côn trùng Noa-đà-bát-tha là sự nghi hoặc. Côn trùng Tản-ca-phù-tra là sự ngã mạn. Con rồng là các vị A-la-hán. Vị Bà-la-môn là Như Lai Ứng cúng Chánh đẳng chánh giác. Sự sắc bén của con dao là người có trí. Con dao là trí tuệ. Phá tan là phát khởi thắng hạnh tinh tấn.

Này các Bí-sô! Ý của các thầy thế nào? Những hiện tượng mà vị ấy thấy, nói một cách tóm tắt, là tất cả thân ngũ uẩn của chúng sanh đều do tinh cha huyết mẹ bất tịnh mà ngưng kết sinh ra, tứ đại hợp thành, sắc tướng hư giả, thô ác hạ liệt, chứa nhóm sự khổ não, rốt cuộc cũng bị tàn hoại. Nhưng các chúng sanh không hề hay biết, ngày đêm khởi lên suy nghĩ, tạo ra nghiệp thân, ngữ bất thiện, bị năm thứ phiền não che lấp, đắm trước nơi ngũ dục, tăng trưởng sự vô minh, sanh tâm ngã mạn; đối với các Thánh pháp nghi hoặc không quyết định, sân hận, tham lam, ghen ghét phát khởi trong từng niệm, không mong cầu giải thoát. Do vậy mà Như Lai Ứng cúng Chánh đẳng chánh giác muốn tất cả những người trí lập hạnh tinh tấn, tu tập trí tuệ, đoạn trừ phiền não, chứng được Thánh quả.

Này các Bí-sô! Khi chấm dứt được các hữu lậu sẽ chứng quả A-la-hán nên nói giống như rồng.

Này các Bí-sô! Chư Phật Thế Tônquá khứvị lai, với lòng bi mẫn thương yêu chúng sanh, muốn tất cả đoạn trừ phiền não, chứng Thánh quả và vì hàng Thanh văn mà rộng nói nghĩa này. Nay Ta cũng giống như chư Phật, đem nhân duyên này giảng thuyết cho các thầy nghe. Các thầy hãy ở nơi tịch tĩnh như đồng hoang, nhà trống, giữa núi, dưới gốc cây, trong hang, am thất… mà lắng lòng tư duy quan sát nghĩa này, đừng phóng túng, sanh tâm thối chuyển. Cũng nên khai thị, giáo đạo, truyền dạy rộng rãi cho người khác tu tập được lợi ích lớn.

Các vị Bí-sô nghe Phật giảng dạy đều tín thọ phụng hành.

Lời kết:

Bản kinh này được xếp trong A-hàm bộ tương đương Pāli: kinh Gò mối (Vammīka sutta – The ant-hill) 23, Trung bộ kinh (Majjhimanikāya) (Nam truyền đại tạng kinh 9 [Hán dịch], Trung bộ kinh 1, tr. 202). Cả hai bản kinh đều có nội dung gần giống nhau.

Trong kinh Gò mối kể rằng: “Một đêm nọ, một vị trời xuất hiện đến hỏi tôn giả Cưu-ma-la Ca-diếp (Kumara Kassapa [Ca-diếp đồng tử]):

Có gò mối ban đêm phun khói, ngày chiếu sáng; một Bà-la-môn bảo kẻ trí hãy cầm gươm đào lên. Kẻ trí đào lên thấy: then cửa, con nhái, cái chĩa hai, một cái lọc, một con rùa, con dao phay, miếng thịt. Cuối cùng gặp một con rắn hổ, Bà-la-môn bảo kẻ trí hãy để yên con rắn và đảnh lễ nó. Vị trời bảo Tỳ-kheo đến nhờ Phật giải thích ẩn ngữ trên, vì chỉ có Phật mới giải được.

Đức Phật giải thích: Gò mối là thân tứ đại, đêm phun khói  là suy nghĩ, ngày chiếu sáng là ban ngày thực hiện những gì ban đêm suy nghĩ. Bà-la-môn là đức Như Lai, bậc Chánh đẳng giác. Kẻ trí là Tỳ-kheo bậc hữu học. Cây gươm là trí tuệ bậc Thánh. ‘Đào’ là trí tuệ tinh tấn. Then cửa là vô minh; ‘đem then cửa lên’ là từ bỏ vô minh. Con nhái là phẫn nộ hiềm hận; cái chĩa hai là nghi hoặc; đồ lọc là năm phiền não trói buộc che lấp. Con rùa là năm thủ uẩn; dao phay là ngũ dục; miếng thịt là hỷ tham. ‘Đào lên’ có nghĩa là từ bỏ tất cả các thứ ấy. Con rắn hổ là vị đã diệt lậu hoặc, đáng đảnh lễ.”

Cả hai kinh này đều thuộc thể loại thí dụ trong văn học Phật giáo Nguyên thủy; đức Phật thường dùng hình ảnh thí dụ giảng dạy để giúp người nghe dễ dàng so sánh, hiểu rõ nội dung giáo pháp. Trong bản kinh có những hình ảnh thí dụ về côn trùng như trùng A-tây-tô-na, trùng Noa-đà-bát-tha… ngài Thí Hộ chỉ mới phiên âm, có thể ngài chưa truy nguyên được nguồn gốc của nó nên không dịch nghĩa. Chúng ta tạm hiểu những côn trùng ấy là loại trùng độc, được đức Phật đưa ra ảnh dụ: Trùng A-tây-tô-na là pháp ngũ dục. Trùng Noa-đà-bát-tha là sự nghi hoặc. Trùng Tản-ca-phù-tra là sự ngã mạn.

Tuy nội dung trong kinh đơn giản, ngắn gọn nhưng là đề tài thiền quán hướng dẫn cho các Tỳ-kheo tu tập trí tuệ vô ngã, và có chánh kiến xả bỏ ngã chấp, giả thân ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức: thân thể, cảm giác, tri giác, tâm hành, và nhận thức); thanh tịnh ba nghiệp, đoạn trừ năm thứ phiền não tham dục, sân hận, hôn trầm, tán loạn, nghi ngờ pháp… lần lượt đoạn trừ tất cả phiền não, tà kiến, các tâm cấu uế, cho đến chứng đắc Thánh quả.

Trong kinh Gò mối còn ghi lại: Vào thời gian đức Phật thuyết kinh này, tôn giả Cưu-ma-la Ca-diếp đang ở địa vị hữu học, sau khi thiền quán về đề tài này liền chứng đắc quả vị A-la-hán.

(Tập san Pháp Luân, số 62)

Send comment
Off
Telex
VNI
Your Name
Your email address
(View: 81)
Pháp Lục hòa là pháp được đức Đạo sư nói ra để dạy cho các đệ tử xuất gia của Ngài lấy đó làm nền tảng căn bản cho nếp sống cộng đồng Tăng đoàn
(View: 123)
Đây là bốn phạm trù tâm thức rộng lớn cao thượng không lường được phát sinh từ trong thiền định khi hành giả tu tập trong tự lợi và, lợi tha
(View: 114)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người
(View: 204)
Sự thành tựu tối thượng mà những vị đang đi trên con đường độc nhất tiến tới giác ngộ, là khả năng thành tựu tất cả từ hư vô.
(View: 162)
Phật pháp như thuốc hay, nhưng tùy theo căn bịnh.
(View: 218)
Pháp Duyên khởi, tiếng Phạn là Pratīya-samutpāda. Pratīya, là sự hướng đến. Nghĩa là cái này hướng đến cái kia và cái kia hướng đến cái này.
(View: 210)
Phẩm này tiếng Phạn Sadāparibhūta. Sadā là thường, mọi lúc, mọi thời gian; Paribhūta là không khinh thường.
(View: 260)
Ngày xưa, ở thành Xá-vệ có một vị trưởng giả giàu có, tiền tài châu báu vô lượng. Ông thường thứ tự thỉnh các vị sa-môn đến nhà cúng dường.
(View: 540)
Đối với chúng con, bạch Thế Tôn, các pháp lấy Thế Tôn làm căn bản, lấy Thế Tôn làm lãnh đạo, lấy Thế Tôn làm chỗ nương tựa.
(View: 466)
Truyền thống Đại thừa Á Đông thường dịch nghĩa prajñāpāramitā là Huệ đáo bỉ ngạn (zh. 慧到彼岸), Trí độ(zh. 智度), Trí huệ độ người sang bờ bên kia.
(View: 430)
Tin nhân quả làm chúng ta an tâm. Sự hợp lý, trật tự, ý nghĩa của một cuộc đời là do nhận thức được và sống theo nhân quả.
(View: 435)
Không có một chỗ nào để trụ trong giáo pháp Trung đạo. Tâm không có chỗ trụ thì không tự giải quyết được gì vì không có nơi để tập trung, nắm níu.
(View: 386)
Bài giảng hôm nay nói về luật Nghiệp Báo. Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo;
(View: 350)
Kamma, Nghiệp, theo đúng nghĩa của danh từ, là hành động, hay việc làm. Định nghĩa cùng tột của Nghiệp là Tác ý (cetana).
(View: 446)
Đối với quỷ sứ, cung trời là địa ngục còn địa ngụcthiên đàng. Đối với thiên thần, cung trời là thiên đàng còn địa ngụcđịa ngục.
(View: 659)
Duyên Khởi hay còn gọi là Định luật Nhân Quả là một nội dung quan trọng bậc nhất trong giáo phápĐức Phật thuyết giảng.
(View: 476)
Là người sống ở thế gian, có ai tránh khỏi một đôi lần gặp bất trắc, tai ương lớn hay nhỏ.
(View: 461)
Hễ nói đến Giáo pháp của đức Phật, chúng takhông thể không nói đến pháp Duyên khởi hay nguyên lý Duyên khởi (Pratìtyasamutpàsa).
(View: 622)
Trong giáo lý của Đức Phật về duyên khởi(Paticca-samuppāda), vòng luân hồi của sinh tử, gọi là samsara, được mô tả như một quá trình
(View: 711)
Bài giảng hôm nay nói về luật Nghiệp Báo. Nhiều người không sinh ra trong gia đình Phật Giáo, nhưng đã tìm học về Phật Giáo nhờ nghe luật Nghiệp Báo;
(View: 540)
Ở đời có người quan niệm rằng, mình sống làm người, sau khi chết mình cũng sẽ tái sinh làm người ở một cõi nào đó, thậm chí có người còn nghĩ mình về sống dưới suối vàng.
(View: 623)
Từ vô ngã bùng nổ thành ngã, và rồi từ ngã bùng nổ giác ngộ trở về lại vô ngã. Cái “big bang Phật Giáo” này xảy ra trong từng sátna.
(View: 802)
Trong nhận thức của quốc vương Koravya, cũng như nhận thức của nhiều người, một người từ bỏ cuộc sống...
(View: 791)
Trong bài này sẽ nói về năm pháp: danh, tướng, phân biệt, chánh trí, như như, từ Kinh Nhập Lăng Già (Đại chánh tân tu Đại tạng kinh,
(View: 827)
Hổm nay chúng ta đã tìm hiểu bài Đại kinh Rừng Sừng Bò, sáu vị thánh nhân trình bày hình ảnh lý tưởng của vị tỳ kheo trí tuệđức hạnh,
(View: 690)
Các học giả tranh luận liệu những lời dạy của Đức Phật được lưu giữ trong kinh điển Pāli có thể được coi là triết học hay không,
(View: 1018)
Ở đời không ai mong cầu giải thoát khi đang ở trong lầu son hạnh phúc. Người ta chỉ muốn được giải thoát khi bị nhốt trong hoàn cảnh bi đát nào đó.
(View: 838)
Chúng sinh tuy bình đẳng nhưng căn tính bất đồng. Bình đẳng trên chân lý không phải là mọi người ngang hàng bằng nhau.
(View: 796)
Đạo Phật là đạo giác ngộ, có nguồn gốc từ Ấn Độ, do Thái tử Tất Đạt Đa Cồ Đàm (Siddhārtha Gautama) hình thành và sáng lập.
(View: 777)
Hồi đó, khi Đức Phật cùng với Tăng đoàn du hóa tại nước Xá-vệ thì có rất nhiều người trẻ đã phát tâm đi tu. Tôn giả A-nan được giao trách nhiệm...
(View: 890)
Trí Tuệ Bát Nhã, thần thông quảng đại, nhận thức được thực tướng của vạn Pháp. Trí Tuệ (wisdom) bao gồm cả kiến thức bác học, kiến giác, chứng nghiệm, tâm lý, tâm linh...
(View: 795)
Tôi xin dùng lý luận khoa học cùng triết lý nhân văn để giải thích những điều tâm linh của Phật Giáo.
(View: 1229)
Hình ảnh Thầy Minh Tuệ xuất hiện trên các mạng xã hội y hệt như một trận bão truyền thông, làm dâng tràn những cảm xúcsuy tưởng.
(View: 832)
Hôm nay chúng ta bắt đầu nghiên cứu chương thứ hai, bàn về những sự thực hành kham khổ, tức là các phương pháp đầu đà.
(View: 858)
Như Lai được định nghĩa trực tiếp ba lần trong Kinh Kim Cương bát nhã ba la mật. Ba lần ấy được nói đến theo thứ tự như sau:
(View: 953)
Kinh Lăng-già tên gọi đầy đủ là Thể Nhập Chánh PhápLăng-già, cuối chương १० सगाथकम्। (10-sagāthakam), biên tập bởi Nanjō Bunyū 南條文雄 (laṅkāvatāra sūtra, kyoto, 1923)
(View: 1126)
Bước đầu tiên để bước vào con đường Phật giáoquy y Tam Bảo, và viên ngọc đầu tiên trong ba viên ngọc mà chúng ta tiếp cận để quy yĐức Phật, Đấng Giác Ngộ.
(View: 954)
Đạo Phật là đạo của bi trí dũng. Đạo của trí tuệ, của chánh biến tri, và chánh tri kiến chứ không phải không thấy mà tin tưởng mù quáng.
(View: 853)
Phân biệt phước đức và công đứccần thiết cho việc học và hành đạo Phật.
(View: 927)
Sơ quả hay Tu-đà-hoàn là quả vị Thánh đầu tiên mà người Phật tử có thể chứng đạt ngay hiện đời.
(View: 894)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(View: 991)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinhphổ biến vào thời của Đức Phật,
(View: 1136)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(View: 1220)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêmđi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(View: 896)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(View: 999)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(View: 1098)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(View: 1359)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(View: 1059)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diệnthế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(View: 1153)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(View: 1363)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(View: 1217)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chấttinh thần.
(View: 1197)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(View: 1375)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(View: 1515)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(View: 1840)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(View: 1660)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(View: 1561)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM