Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Trung Đạo Trong Kinh A-Hàm

15 Tháng Hai 202418:36(Xem: 532)
Trung Đạo Trong Kinh A-Hàm
Trung Đạo Trong Kinh A-Hàm 

Thích Nguyên Hùng


sen2

Trong quá trình hình thành và phát triển xã hộicon người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúcthỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thầnCon người không ngừng ước muốn khám về chính mình và thế giới vũ trụ xung quanh mình. Đó là một trong những nguyên nhân hình thành tôn giáo và học thuyết triết học


Dẫn nhập 

Trong quá trình hình thành và phát triển xã hộicon người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúcthỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thầnCon người không ngừng ước muốn khám về chính mình và thế giới vũ trụ xung quanh mình. Đó là một trong những nguyên nhân hình thành tôn giáo và học thuyết triết học


Tại đất nước Ấn Độ vào thời xa xưa, khoảng 8.000 năm trước Công nguyên, đã có khoảng 62 trường phái học thuyết triết học khác nhau và nổi bật nhất thời bấy giờ. Chính Đức Phật khẳng định rằng, tư tưởng của nhân loại luôn luận bàn về quá khứ tối sơ (tức khởi nguyên của vũ trụ), hay luận bàn về tương lai, hay luận về quá khứ tối sơ và tương lai, tất cả đều có những quan niệm sai khác nhau, nhưng tất cả đều nằm trong 62 trường phái triết học này, không thể ra ngoài, vì vậy Đức Phật đặt tên cho bài pháp thoại mà Ngài thuyết giảng là kinh Phạm võng, có nghĩa là tấm lưới tư tưởng bủa khắp tất cả tư tưởng của nhân loại

Trong 62 trường phái triết học, có những trường phái đã được hình thành từ sự chứng nghiệm tâm linhở một mức độ nào đó nhờ tư duy, thẩm sát và thiền địnhTuy nhiên, những chủ thuyết này ra đời phần lớn là dựa vào những cảm thọ, do sự xúc chạm qua sáu xứ. Và vì duyên với những cảm thọ mà tham áiphát khởi, dẫn đến sầu, bi, khổ, ưu, não phát khởi. Cho nên, những trường phái triết học này, mặc dù được kinh nghiệm từ tâm linh, nhưng không đưa đến an lạc và giác ngộ giải thoátĐức Phật tuyên bốrằng, đối với 62 học thuyết đó, Ngài đều có kinh nghiệm và khẳng định rằng, nó phát sinh từ kinh nghiệm cảm thọ và chấp thủ cảm thọĐức Phật đã không bằng lòng với những kinh nghiệm tâm linhđó.1 

Hai cực đoan 

Đáng chú ý nhất trong 62 trường phái học thuyết triết học thời bấy giờ là hai trường phái hưởng thụ và khổ hạnh


Trường phái hưởng thụ là những người chủ trương sống theo chủ nghĩa vật chấtchủ nghĩa khoái lạc, do ông Carvakas sáng lập ra. Theo ông này, con người chết là hết, là chấm dứt tất cả, không có tội phước, không có đời sau, chỉ có thế gian hiện tại là thực tiễn. Chủ trương như vậy, cho nên trường phái này kêu gọi mọi người “hãy ăn, uống và tận hưởng mọi lạc thú, vì cái chết đến với tất cả”. Đối với những người theo trường phái này, “đạo đức là một ảo tưởng, chỉ có khoái lạc là thực tiễn. Chết là mức cuối cùng của đời sốngTôn giáo là một thác loạn điên cuồng, một chứng bệnh thần kinh”2. Đây là trường phái chấp đoạn, tuyệt diệt, sống sa đọa, thô tụcthấp hèn

Trong khi đó, một trường phái khác hoàn toàn ngược lại, chủ trương rằng chỉ có đời sống khổ hạnh khắt khe mới có thể đưa con người đến giải thoát. Đó là một lý thuyết thuần túy đạo đức mà những nhà tu khổ hạnh thời bấy giờ bênh vực một cách mạnh mẽ và cũng được đông đảo quần chúng xã hội ủng hộ, xem những nhà tu khổ hạnh như là những biểu tượng của đạo đức giải thoát

Đức Phật khi còn là thái tử, dù Ngài không phải là tín đồ của trường phái chủ trương sống hưởng thụ vật chất, nhưng đời sống của một bậc vương giả thì không có gì thiếu thốn, và Ngài đã cảm thấy đời sống ấy quả thật quá thấp hèn. Sau khi xuất giatrải qua sáu năm thực hành đúng theo tôn chỉ của trường phái khổ hạnh với mọi hình thức, vượt lên trên cả những bậc thầy về khổ hạnh, nhưng rồi Ngài cũng nhận ra rằng lối tu khổ hạnh quả thật là vô ích. Từ đó, Ngài thay đổi phương pháp tu tập và thực hành theo phương pháp Trung đạo. Và quả nhiên, bằng phương pháp tu này, Ngài đã đạt được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác

Con đường trung đạo 

Sau khi đắc đạoĐức Phật suy xét không biết có nên tuyên thuyết giáo lý mà Ngài chứng ngộ cho người đời hay không, hay chỉ nên giữ riêng cho mình, vì giáo lý mà Ngài chứng ngộ quá cao siêu, khó thấy, khó hiểu, dựa trên thực nghiệm, tuyệt diệu, không phải do lý luậntế nhị, chỉ có bậc trí mới thấu triệtđược mà thôi. Hơn nữa, chúng sanh trong thế giới này thì thích thú dục lạc, song giáo pháp mà Đức Phật chứng ngộ thì hướng đến viễn lyly tham, ái diệt. Nghĩ như vậy, Đức Phật định vào Niết-bàn. Nhưng vì lòng từ bi mẫn, thương xót chúng sanh chìm đắm trong sinh tử khổ đau, nên Ngài lại nghĩ: “Có những cây mọc từ trong nước, trưởng thành trong nước, sống trong lòng nước, và sởn sơ tươi tắn trong nước. Có những cây sanh trong nước, trưởng thành trong nước, và ló dạng trên mặt nước. Có những cây khác sanh trong nước, trưởng thành trong nước và vượt lên khỏi mặt nước, không vướng chút bùn nhơ. Cũng vậy, chúng sanh kẻ ít người nhiều đều có bụi trong mắt, người thông minh sáng suốt, kẻ ngu muội tối tăm, bẩm tánh của người này tốt, người kia xấu, có chúng sanh dễ dạy, cũng có chúng sanhkhó dạy, và một số ít khác, với lòng biết lo sợ, nhận thấy mối hiểm họa của một kiếp sống trong tương lai, chắc chắn nghe được giáo pháp”. Với niềm tin tưởng và hy vọng như vậy cùng với lòng từ bi cao cả, Đức Thế Tôn lên đường chuyển bánh xe pháp


Đức Phật lên đường hoằng pháp và bài pháp thoại đầu tiên được tuyên thuyết tại vườn Lộc Dã, Isipatana, gần Benares. Bài pháp thoại đầu tiên này được gọi tên là Chuyển pháp luân, khởi đầu sự nghiệp hoằng pháp của Đức Phật. Đối tượng của bài pháp thoại này chính là các ông Ajnata-kaundinya, Bhadra-jit, Mahā-naman, Vaspa và Asvajit, năm người bạn đồng tu khổ hạnh với Đức Phật trước đây. Nội dung của bài pháp thoại trình bày pháp Trung đạo và nêu lên hệ thống Bốn chân lý

Đức Phật dạy: 

“Này các bạn đồng tu, có hai cực đoan mà người xuất gia không nên vướng mắc. Đó là hai cực đoannào? Một là đắm mình vào dục lạcthấp kém, tầm thường, hạ liệt, không xứng đáng bậc Thánh, không ích lợi. Mặt khác là chuyên tâm khổ hạnh ép xác, gây khổ đau, không xứng đáng bậc Thánh, và cũng không lợi ích

“Này các bạn đồng tuNhư Lai đã tránh xa hai cực đoan này, và tìm ra Trung đạo chính là con đườngkhiến cho ta thấy và biết, con đường đưa đến an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn”3


Đây là những lời pháp nhủ đầu tiên được ban phát, nhưng đã gói trọn tinh hoa của giáo lý giác ngộ giải thoátĐức Phật giảng giải rằng, đắm mình vào dục lạc hay ham thích đời sống lợi dưỡng sẽ làm chậm trễ tiến bộ tâm linh. Còn khổ hạnh sẽ làm giảm suy trí thức. Chính bản thân Đức Phật đã trải qua hai lối sống cực đoan này và kinh nghiệm rằng cả hai đều không dẫn đến mục tiêu cứu cánh. Rồi Ngài chỉ ra con đường mà chính Ngài đã khám khá, vô cùng thực tiễn và hữu ích. Đây là con đường duy nhất dẫn đến tình trạng trong sạch hoàn toàn và tuyệt đối giải thoát. Đó chính là con đường Trung đạo, được trải ra bằng Bát chánh đạoTrung đạo chính là Bát chánh đạo vậy! 
Thoát rừng tà kiến 

Trở lại bối cảnh đương thời Đức Phậtxã hội Ấn Độ có quá nhiều trường phái triết họctôn giáo với những chủ trương khác nhau, thậm chí chống trái nhau. 62 luận thuyết về vũ trụ và nhân sinh mà kinh Phạm động nêu ra đều căn cứ trên hai phần thời gian quá khứ tối sơ, gọi là bản kiếp bản kiến(pubbantakappikā, tức khởi nguyên của vũ trụ), và tương lai mạt kiếp, gọi là mạt kiếp mạt kiến(aparantakappikā, luận bàn về tương lai, đời sau). 


Về bản kiếp bản kiến, có trường phái chủ trương Thường trú luận (sassatavāda), cho rằng ngã và thế giới là thường hằngbất biến. Có trường phái chủ trương Bán thường trú luận (ekaccasassatavāda), cho rằng bản ngã và thế giới một phần thường trú và một phần không thường trú, chịu biến dịch, tức duy chỉ Brahman (Thượng đế) là thường hằng bất biếnngoài ra đều chịu biến dịch. Lại có trường phái chủ trương Hữu biên vô biên luận (antānantavāda), cho rằng tự ngã và thế giới là hữu biênvô biên, vừa hữu vừa vô biên và không phải hữu biên, không phải vô biên. Cũng có trường phái rất ngớ ngẩn, ấy là phái Nguỵ biện luận (anarāvikkhepavāda), hỏi một đường đáp một nẻo. Có trường phái chủ trương Vô nhân luận hay Ngẫu nhiên luận (adhicca-samuppannavāda), cho rằng thế giới này do ngẫu nhiên, không bởi nguyên nhân nào cả, xuất hiện từ hư vô

Về mạt kiếp mạt kiến, có trường phái chủ trương Hữu tưởng luận (saññīvāda), cho rằng đời sau có tưởng đồng thời có sắc (hữu hình), hoặc không sắc (vô hình), có biên (hữu hạn), hay không có biên (vô hạn), thuần lạc, hay thuần khổ, tưởng cục bộ hay tưởng vô lượng, v.v… Có trường phái chủ trương Vô tưởng luận (asaññīvāda), cho rằng đời sau có sắc, không có tưởng, v.v… Có trường phái chủ trương Phi tưởng phi phi tưởng luận (nevasaññīnāsaññīvāda), đời sau không phải có tưởng cũng không phải không có tưởng, v.v… Có trường phái chủ trương Đoạn diệt luận (ucchedavāda), cho rằng chúng sanhhoàn toàn đoạn diệtvô thường. Nhưng cũng có trường phái chủ trương Hiện tại Niết-bàn luận (diṭṭhadhammanibbānavāda), cho rằng năm dục là Niết-bàn trong hiện tại, hoặc Sơ thiềncho đến Tứ thiền, là Niết-bàn trong hiện tại

Tựu trung, Tạp A-hàm gọi chung các chủ trương trên là Nhị biên, hay như Long Thọ khái quát thành sinh, diệt, thường, đoạn, nhất, dị, lai, xuất, và phương pháp để thoát khỏi rừng kiến chấp ấy chính là tu tập 12 nhân duyên, hay bất sinhbất diệt, bất thường, bất đoạn, bất nhất, bất dị, bất lai, bất xuất. Kinh ghi: “‘Mệnh tức là thân’, hoặc ‘mệnh khác, thân khác’. Người ta thấy mệnh tức là thân, người tu phạm hạnh không nhận thức như vậy. Người ta thấy mệnh khác, thân khác, người tu phạm hạnh không chủ trương như vậy. (Người tu phạm hạnhthoát khỏi Nhị biênchân chính hướng trung đạo. Bậc hiền thánhxuất thế chánh kiến như thật, không điên đảo, nghĩa là do Vô minh, Hành sinh”4

Như vậy, Trung đạo chính là Duyên khởiDuyên khởi chính là không. Kinh ghi: “Ta sẽ vì các ông nói pháp, khoảng đầu, khoảng giữa và khoảng sau cùng đều thiện; thiện nghĩa, thiện vị, thuần nhất thanh tịnhphạm hạnh trong sạch; đó gọi là kinh Đại không pháp. Các Tỳ-kheo hãy lắng nghe, khéo tư duy. Ta sẽ vì các ông mà nói. Thế nào là kinh Đại không pháp? Cái này có nên cái kia có, cái này khởi nên cái kia khởi; tức là duyên Vô minh nên có Hành, duyên Hành nên có Thức,… cho đến tụ tập thuần một khối khổ lớn”5.

Lời kết 

Trung đạo là pháp môn tu tập, nhưng chúng ta cũng có thể hiểu đó là thái độ sống hay nghệ thuật sống đã đưa Thế Tôn đến chỗ giác ngộTrung đạo, theo Đức Thế Tôn định nghĩa, là con đường tám nhánh, tức Bát chánh đạo - chánh kiếnchánh tư duychánh ngữchánh nghiệpchánh mạngchánh tinh tấnchánh niệm và chánh định - nhưng theo ý nghĩa của đoạn pháp thoại mở đầu kinh Chuyển pháp luân thì trung đạo chính là phương pháp tu tập hay nghệ thuật sống đi ra ngoài hay vượt ra khỏi hai cực đoanhưởng thụ và khổ hạnhTrung đạo hoàn toàn không có ý nghĩa là con đường giữa, tức không phải là con đường đi giữa hai cực đoan hay nhị biênTrung đạo là con đường vượt ra ngoài đời sống hệ lụydương trần, vượt ra ngoài mọi sự kiềm tỏachi phối của ngũ dụctà kiến và vô minh


Theo ý nghĩa đó, điều quan trọng nhất của người xuất gia tu tập là phải giữ tâm an định, không bị lôi cuốn theo bất kỳ một xu hướng nào. Không những chỉ giữ tâm không bị vướng mắc vào hai cực đoan, mà ngay cả những cảm thọ lạc xuất phát từ thiền định cũng không vướng mắc. Do đó, Trung đạo được hiểu như là một phương pháp xả ly và giữ tâm bình thường. Đó chính là ý nghĩa mà chư Tổ thường dạy “Tâm bình thường là đạo”. 

Thật vậy, một thời, Đức Phật trú tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng Lâm, vườn Cấp Cô Độc

Bấy giờ, Tôn giả Sa-môn Nhị Thập Ức cũng trú tại nước Xá-vệ, trong rừng Ám Lâm; đầu đêm, giữa đêm và cuối đêm đều học tập không ngủ, tinh cần chánh trụ, tu tập đạo phẩm, nhưng tâm vẫn chưa giải thoátđược các lậu, nên có ý định xả giới, bỏ đạo hạnh, trở về đời sống thế tục chuyên việc bố thítu tập các phước nghiệp, vì nhà thầy rất giàu. 

Thế Tôn biết được tâm niệm ấy cho nên gọi thầy đến và nói pháp thoại “nghệ thuật lên dây đàn”, bởi Sa-môn Nhị Thập Ức khi sống tại gia rất giỏi đánh đàn. Theo đó, một người tu tập nếu quá sức tinh tấnsẽ khiến tâm rối loạn, nhưng chẳng tinh tấn thì tâm sẽ biếng lười. Vì vậy cần phải giữ cân bằng sự sống, biết sắp xếp thời gian thích hợp cho từng công việc, biết nắm bắt và buông bỏ những pháp cần và không cần cho đời sống phạm hạnh, như người nghệ sĩ đánh đàn biết lên dây vừa phải, không quá căng cũng không quá chùng. Đó là nghệ thuật sống vui an lạclối sống thong dongtrung đạo

Sa-môn Nhị Thập Ức sau khi lãnh thọ lời dạy của Thế Tôntrở về nơi xa vắng, tâm không buông lungnỗ lực tinh tấn tu tập, không bao lâu chứng quả A-la-hán, tìm được an lạc trong sáu trường hợpan lạcnơi vô dục, an lạc nơi viễn lyan lạc nơi vô tránhan lạc nơi ái tận, an lạc nơi thủ tận, và an lạc nơi tâm không di động. Thầy trình bày sở chứng của mình lên Đức Thế Tôn mà không khen mình khinh người, nên được Đức Thế Tôn khen ngợi, ấn chứng.

Rõ ràngtrung đạo là cách sống, nghệ thuật sống, sống với Duyên khởiBát chánh đạo, và nhờ cách sống này mà thoát ly sinh tử luân hồi vậy!

Thích Nguyên Hùng
Thư Viện Hoa Sen
____________________
(1) Trường A-hàm 21, kinh Phạm động. Pāli: D. 1. Brahmajālasutta. 
(2) Kinh dẫn thượng. 
(3) Kinh Chuyển pháp luân, Tạp A-hàm, số 397. S. 56. 11-12. Tathāgatena vuttā. 
(4) ĐKT/ĐCTT, T.02, n°.0099, p.84c. Nguyên văn: 『命即是身。』或言:『命異身異。』彼見命即是身者,梵行者無有;或言命異身異者,梵行者亦無有。離此二邊,正向中道。賢聖出世,如實不顛倒正見[1]所知,所謂緣無明行。 
(5) Kinh dẫn thượng.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2395)
Đến nay, vấn đề xác định kinh điển Phật thuyết hay phi Phật thuyết vẫn là nội dung được các học giả quan tâm nghiên cứu
(Xem: 3076)
Nhiều học giả phương Tây nhận định rằng khái niệm Niết bàn, tức nirvāṇa trong Sanskrit hay nibbāna trong Pali, có thể xem là ...
(Xem: 2750)
Hãy thử tưởng tượng một đoàn người đang ngồi trên một chiếc thuyền trôi giữa biển, trong đêm tối. Sự nhỏ nhoi của con thuyền...
(Xem: 2066)
Vũ trụ này thực sự là gì? Tại sao có những thế giới nhiễm ô của chúng sanh? Làm gì để “chuyển biến” thế giới nhiễm ô thành thế giới thanh tịnh?
(Xem: 3085)
Tôi không cần giải thích tại sao bạn cần phải thực hành Pháp; tôi nghĩ bạn hiểu điều đó.
(Xem: 2703)
Thế giới chúng ta đang sinh sống ắt phải nằm trong “Hoa tạng thế giới”, tức là thế giới Hoa Nghiêm
(Xem: 3608)
Việc thẳng tiến bước trên con đường đạo lý thanh cao hầu đạt đến chân lý hạnh phúc chẳng khác nào bơi ngược dòng đời là một vấn đề...
(Xem: 3426)
Chúng ta thấy một sự vật bằng cách thấy màu sắc của nó và nhờ màu sắc ấy mà phân biệt với những sự vật có màu sắc khác
(Xem: 4250)
Tiếng Sankrit là Drama (tiếng Tạng là: cho) nghĩa là giữ lấy hoặc nâng đỡ. Vậy Pháp nâng đỡ hoặc duy trì cái gì?
(Xem: 3778)
Trong những nhà phiên dịch kinh điểnthời kỳ đầu của Phật giáo Trung Quốc, ngài Đàm-vô-sấm (曇無讖) hiện ra như một nhà phiên kinh trác việt[1].
(Xem: 4315)
Khi chúng ta mới học lần đầu rằng cứu cánh của sự tu tập đạo Phật có tên gọi là Nibbana (Nirvana, Niết-bàn),
(Xem: 2389)
“Đức Phật nói: Như vậy, như vậy, như lời ông nói. Tu Bồ Đề! Nhất thiết chủng trí, chẳng phải là pháp tạo tác, chúng sanh cũng chẳng phải là pháp tạo tác.
(Xem: 3555)
Đức Phật cho rằng, bạn phải quan sát hơi thở như nó đang là-yathabhuta. Nếu hơi thở dài, bạn biết nó dài, nếu hơi thở ngắn, bạn biết nó ngắn.
(Xem: 4260)
Tâm là kinh nghiệm cá nhân, chủ quan về “điều gì” luôn luôn thay đổi, từ khoảnh khắc này đến khoảnh khắc khác.
(Xem: 4040)
“Cánh cửa bất tử đã mở ra cho tất cả những ai muốn nghe”, đây là câu nói của Đức Phật sau khi Ngài giác ngộ.
(Xem: 2945)
Trong các kinh thường ví chân tâm là viên ngọc, như viên ngọc như ý, viên ngọc ma ni, lưới Trời Đế Thích…Bài kệ này chỉ thẳng Viên Ngọc Tâm
(Xem: 3449)
Trong Nguồn thiền, Tổ Khuê Phong Tông Mật nói: “Người ngộ ngã pháp đều không, hiện bày chân lý mà tu là thiền Đại thừa”.
(Xem: 3571)
Trong Kinh Văn Thù quyển hạ có chép: Ngài Văn Thù thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn thì đệ tử của Ngài phân hóa bộ phái như thế nào?
(Xem: 4657)
Vấn đề Nam tôngBắc tông là một vấn đề tương đối rất cũ – cũ đến hơn một ngàn năm trăm năm kể từ ngày con người có được cái hạnh phúc biết đến giáo pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 3974)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”
(Xem: 4846)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 4123)
Mất 11 năm khổ công tầm đạo, Đức Phật Thích Ca đã đạt đại giác ngộ sau 49 ngày quyết tâm thiền định dưới cội cây bồ đề.
(Xem: 3097)
Trước những sự kiện diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, tôi đã từng ngày đêm thao thức với biết bao câu hỏi “ Tại sao ?”...
(Xem: 3842)
Một người không có trí nhớ, hoặc mất trí nhớ, cuộc đời người ấy sẽ ra sao?
(Xem: 3996)
Chí đạo vốn ở tâm mình. Tâm pháp vốn ở vô trụ. Tâm thể vô trụ, tánh tướng tịch nhiên, chẳng phải có chẳng phải không, chẳng sanh chẳng diệt.
(Xem: 3193)
Trước khi nhập Niết-bàn, đức Phậtdi giáo tối hậu cho các chúng đệ tử: “Pháp và Luật mà Ta đã thuyết và qui định, là Đạo Sư của các ngươi sau khi Ta diệt độ.”
(Xem: 3692)
Phật giáo là một tổ chức cộng đồng (Samasambhaga) ra đời sớm nhất trong lịch sử nhân loại (-5 CN).
(Xem: 4533)
Đức Phật, một nhân vật lịch sử 3000 năm về trước, ra đời tại Bắc Ấn, là bậc giác ngộ toàn triệt, là bậc đạo sư với nghi biểu đặc biệt xuất hiện ở đời.
(Xem: 3793)
Con người sanh ra để hưởng thụ qua lục dục như tài, sắc, danh, thực, thùy (Ngủ nghỉ), .v.v. Con người trải qua một chu kỳ già, bệnh và cuối cùng là chết.
(Xem: 2348)
Nguyên bản: Teachings On The Eight Verses On Training The Mind. Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma . Anh dịch: Thupten Jinpa. Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 2701)
Phật tánh với thành Phật là hai vấn đề khác nhau, không thể đồng nhất được.
(Xem: 3119)
Kinh Tiểu Duyên (Aggaññasutta) trong tiếng Pali có nghĩa là kinh nói về nguyên nhân hay bài giảng về khởi nguyên các pháp.....
(Xem: 2813)
Đức Phật đã dạy về những sự thật này ngay khi ngài đạt đến Giác Ngộ như một phần của những gì được biết như Chuyển Pháp Luân Lần Thứ Nhất.
(Xem: 4687)
“Thiên đường có lối sao chẳng đi Địa ngục không cửa dấn thân vào”
(Xem: 5018)
Khổ đau và hạnh phúc là nỗi trầm tư hàng đầu trong kiếp nhân sinh. Nhiều người cho rằng hai cảm thọ ấy là do nghiệp quyết định.
(Xem: 2925)
Kính lễ đạo sư và đấng bảo hộ của chúng con, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát! Sự thông tuệ của ngài chiếu soi như mặt trời, không bị che mờ bởi vọng tưởng hay dấu vết của si mê,
(Xem: 5509)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm
(Xem: 2933)
Trong phẩm Ứng Tận Hoàn Nguyên kinh Đại Bát Niết Bàn, nói về sự nhập Niết bàn của Đức Phật.
(Xem: 3383)
Trong số các vị Tổ sư của Thiền phái Vô Ngôn Thông, Viên Chiếu được xem là vị Thiền sư danh tiếng, lỗi lạc bậc nhất.
(Xem: 4462)
Nguyên tử giải phóng trở thành nguyên tử năng là đánh dấu thời đại đại phát minh của nhân loại. Là họa hay là phước tạm thời không bàn luận đến.
(Xem: 5047)
Luân hồinhân quả là hai sự kiện tương quan. Bởi chúng sanh còn nghiệp trái của nhân quả thiện ác nên mới bị luân hồi.
(Xem: 4803)
“Tướng” là cái gì? “Tướng” chính là tướng trạng của sự vật biểu hiện nơi ngoài và tưởng tượng ở nơi trong tâm chúng ta.
(Xem: 3348)
Kính Pháp Sư Hiền Đức, tôi là một tu sĩ đạo hiệu Thích Thắng Hoan có vài lời tâm niệm gởi đến Pháp Sư, một hôm tôi đến chùa...
(Xem: 4638)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 4357)
Một trong những Pháp sư được tôn vinh nhất trong lịch sử châu Á, Ngài Huyền Trang – một nhà sư, học giả, dịch giả nổi tiếng...
(Xem: 6255)
Mùa xuân là dịp để trở về, dừng bước chân hoằng hóa để quán chiếu mọi nhân duyên giữa đời.
(Xem: 3578)
Bản Pháp văn mà tôi giới thiệu ở đây, không phải là toàn văn được in trên giấy, mà chỉ là một phần gọn nhẹ và cô đọng, cắt bớt những giới luật khá khắt khe khó tiếp cận với người Tây phương, nên giản dị và dễ đi vào lòng người.
(Xem: 4133)
Trước đây rất lâu từ những năm 1930, người ta đã chất vấn, phê phán rằng những người theo Phật giáo không biết làm giàu.
(Xem: 6107)
Trong không gian mênh mông của vườn kinh điển Đại Thừa, Diệu Pháp Liên Hoa là đoá hoa vi diệu nhất mà chính Đức Thế Tôn đã ca ngợi
(Xem: 5498)
Trong cuộc sống, nếu một người mất đi niềm tin sẽ trở nên vị kỷ, bất cần và gặt hái khổ đau, dễ dàng bị tác động vào những...
(Xem: 4161)
Đức Phật đã dạy: "Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh." Tất cả mọi loài, ai cũng có cái tánh làm Phật. Mình hiểu lời Phật dạy một cách nôn na như vậy.
(Xem: 33667)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 3259)
Ngày nay, vấn đề kỳ thị chủng tộc, giai cấp, giới tính được con người quan tâmtranh đấu quyết liệt hơn bao giờ hết.
(Xem: 4239)
Phật tánhthực tại tối hậu của chúng sanh và các bậc giác ngộ. Kinh Đại Bát Niết Bàn đã dùng nhiều từ để chỉ Phật tánh này
(Xem: 4806)
Kinh Biệt Giải Thoát Giới - tên gọi khác của Kinh Tư Lượng (Anumāna Sutta) - là bài kinh thứ mười lăm trong Majjhima Nikāya
(Xem: 3205)
Trong suốt hai ngàn năm lịch sử, đạo Phật luôn luôn có mặt trong lòng dân tộc Việt Nam khắp nẻo đường đất nước và gắn bó với dân tộc Việt Nam trong mọi thăng trầm vinh nhục.
(Xem: 3887)
Có nhiều bài kệ rất hay khi xướng lên hay khi tán tụng; hoặc giả khi mạn đàm Phật Pháp; nhưng cũng có lắm bài kệ...
(Xem: 3639)
Từ nhỏ, lúc mới vào chùa khi 15 tuổi của năm 1964 và năm nay 2020 cũng đã trên 70 tuổi đời và hơn 55 năm sống trong Thiền Môn
(Xem: 6680)
Duy Thức Học được gọi là môn triết họcmôn học này nhằm khai triển tận cùng nguyên lý của vạn hữu vũ trụ nhân sanh mà vạn hữu vũ trụ nhân sanh...
(Xem: 2851)
Vấn đề thế giới địa ngụcvấn đề rất nhiều nghi vấn, những người theo đạo Phật thì tin có thế giới địa ngục, những người không theo đạo Phật thì không tin có thế giới địa ngục và có một hạng người thì nửa tin nửa ngờ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant