Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Trung Đạo Trong Kinh A-Hàm

15 Tháng Hai 202418:36(Xem: 531)
Trung Đạo Trong Kinh A-Hàm
Trung Đạo Trong Kinh A-Hàm 

Thích Nguyên Hùng


sen2

Trong quá trình hình thành và phát triển xã hộicon người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúcthỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thầnCon người không ngừng ước muốn khám về chính mình và thế giới vũ trụ xung quanh mình. Đó là một trong những nguyên nhân hình thành tôn giáo và học thuyết triết học


Dẫn nhập 

Trong quá trình hình thành và phát triển xã hộicon người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúcthỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thầnCon người không ngừng ước muốn khám về chính mình và thế giới vũ trụ xung quanh mình. Đó là một trong những nguyên nhân hình thành tôn giáo và học thuyết triết học


Tại đất nước Ấn Độ vào thời xa xưa, khoảng 8.000 năm trước Công nguyên, đã có khoảng 62 trường phái học thuyết triết học khác nhau và nổi bật nhất thời bấy giờ. Chính Đức Phật khẳng định rằng, tư tưởng của nhân loại luôn luận bàn về quá khứ tối sơ (tức khởi nguyên của vũ trụ), hay luận bàn về tương lai, hay luận về quá khứ tối sơ và tương lai, tất cả đều có những quan niệm sai khác nhau, nhưng tất cả đều nằm trong 62 trường phái triết học này, không thể ra ngoài, vì vậy Đức Phật đặt tên cho bài pháp thoại mà Ngài thuyết giảng là kinh Phạm võng, có nghĩa là tấm lưới tư tưởng bủa khắp tất cả tư tưởng của nhân loại

Trong 62 trường phái triết học, có những trường phái đã được hình thành từ sự chứng nghiệm tâm linhở một mức độ nào đó nhờ tư duy, thẩm sát và thiền địnhTuy nhiên, những chủ thuyết này ra đời phần lớn là dựa vào những cảm thọ, do sự xúc chạm qua sáu xứ. Và vì duyên với những cảm thọ mà tham áiphát khởi, dẫn đến sầu, bi, khổ, ưu, não phát khởi. Cho nên, những trường phái triết học này, mặc dù được kinh nghiệm từ tâm linh, nhưng không đưa đến an lạc và giác ngộ giải thoátĐức Phật tuyên bốrằng, đối với 62 học thuyết đó, Ngài đều có kinh nghiệm và khẳng định rằng, nó phát sinh từ kinh nghiệm cảm thọ và chấp thủ cảm thọĐức Phật đã không bằng lòng với những kinh nghiệm tâm linhđó.1 

Hai cực đoan 

Đáng chú ý nhất trong 62 trường phái học thuyết triết học thời bấy giờ là hai trường phái hưởng thụ và khổ hạnh


Trường phái hưởng thụ là những người chủ trương sống theo chủ nghĩa vật chấtchủ nghĩa khoái lạc, do ông Carvakas sáng lập ra. Theo ông này, con người chết là hết, là chấm dứt tất cả, không có tội phước, không có đời sau, chỉ có thế gian hiện tại là thực tiễn. Chủ trương như vậy, cho nên trường phái này kêu gọi mọi người “hãy ăn, uống và tận hưởng mọi lạc thú, vì cái chết đến với tất cả”. Đối với những người theo trường phái này, “đạo đức là một ảo tưởng, chỉ có khoái lạc là thực tiễn. Chết là mức cuối cùng của đời sốngTôn giáo là một thác loạn điên cuồng, một chứng bệnh thần kinh”2. Đây là trường phái chấp đoạn, tuyệt diệt, sống sa đọa, thô tụcthấp hèn

Trong khi đó, một trường phái khác hoàn toàn ngược lại, chủ trương rằng chỉ có đời sống khổ hạnh khắt khe mới có thể đưa con người đến giải thoát. Đó là một lý thuyết thuần túy đạo đức mà những nhà tu khổ hạnh thời bấy giờ bênh vực một cách mạnh mẽ và cũng được đông đảo quần chúng xã hội ủng hộ, xem những nhà tu khổ hạnh như là những biểu tượng của đạo đức giải thoát

Đức Phật khi còn là thái tử, dù Ngài không phải là tín đồ của trường phái chủ trương sống hưởng thụ vật chất, nhưng đời sống của một bậc vương giả thì không có gì thiếu thốn, và Ngài đã cảm thấy đời sống ấy quả thật quá thấp hèn. Sau khi xuất giatrải qua sáu năm thực hành đúng theo tôn chỉ của trường phái khổ hạnh với mọi hình thức, vượt lên trên cả những bậc thầy về khổ hạnh, nhưng rồi Ngài cũng nhận ra rằng lối tu khổ hạnh quả thật là vô ích. Từ đó, Ngài thay đổi phương pháp tu tập và thực hành theo phương pháp Trung đạo. Và quả nhiên, bằng phương pháp tu này, Ngài đã đạt được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác

Con đường trung đạo 

Sau khi đắc đạoĐức Phật suy xét không biết có nên tuyên thuyết giáo lý mà Ngài chứng ngộ cho người đời hay không, hay chỉ nên giữ riêng cho mình, vì giáo lý mà Ngài chứng ngộ quá cao siêu, khó thấy, khó hiểu, dựa trên thực nghiệm, tuyệt diệu, không phải do lý luậntế nhị, chỉ có bậc trí mới thấu triệtđược mà thôi. Hơn nữa, chúng sanh trong thế giới này thì thích thú dục lạc, song giáo pháp mà Đức Phật chứng ngộ thì hướng đến viễn lyly tham, ái diệt. Nghĩ như vậy, Đức Phật định vào Niết-bàn. Nhưng vì lòng từ bi mẫn, thương xót chúng sanh chìm đắm trong sinh tử khổ đau, nên Ngài lại nghĩ: “Có những cây mọc từ trong nước, trưởng thành trong nước, sống trong lòng nước, và sởn sơ tươi tắn trong nước. Có những cây sanh trong nước, trưởng thành trong nước, và ló dạng trên mặt nước. Có những cây khác sanh trong nước, trưởng thành trong nước và vượt lên khỏi mặt nước, không vướng chút bùn nhơ. Cũng vậy, chúng sanh kẻ ít người nhiều đều có bụi trong mắt, người thông minh sáng suốt, kẻ ngu muội tối tăm, bẩm tánh của người này tốt, người kia xấu, có chúng sanh dễ dạy, cũng có chúng sanhkhó dạy, và một số ít khác, với lòng biết lo sợ, nhận thấy mối hiểm họa của một kiếp sống trong tương lai, chắc chắn nghe được giáo pháp”. Với niềm tin tưởng và hy vọng như vậy cùng với lòng từ bi cao cả, Đức Thế Tôn lên đường chuyển bánh xe pháp


Đức Phật lên đường hoằng pháp và bài pháp thoại đầu tiên được tuyên thuyết tại vườn Lộc Dã, Isipatana, gần Benares. Bài pháp thoại đầu tiên này được gọi tên là Chuyển pháp luân, khởi đầu sự nghiệp hoằng pháp của Đức Phật. Đối tượng của bài pháp thoại này chính là các ông Ajnata-kaundinya, Bhadra-jit, Mahā-naman, Vaspa và Asvajit, năm người bạn đồng tu khổ hạnh với Đức Phật trước đây. Nội dung của bài pháp thoại trình bày pháp Trung đạo và nêu lên hệ thống Bốn chân lý

Đức Phật dạy: 

“Này các bạn đồng tu, có hai cực đoan mà người xuất gia không nên vướng mắc. Đó là hai cực đoannào? Một là đắm mình vào dục lạcthấp kém, tầm thường, hạ liệt, không xứng đáng bậc Thánh, không ích lợi. Mặt khác là chuyên tâm khổ hạnh ép xác, gây khổ đau, không xứng đáng bậc Thánh, và cũng không lợi ích

“Này các bạn đồng tuNhư Lai đã tránh xa hai cực đoan này, và tìm ra Trung đạo chính là con đườngkhiến cho ta thấy và biết, con đường đưa đến an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết-bàn”3


Đây là những lời pháp nhủ đầu tiên được ban phát, nhưng đã gói trọn tinh hoa của giáo lý giác ngộ giải thoátĐức Phật giảng giải rằng, đắm mình vào dục lạc hay ham thích đời sống lợi dưỡng sẽ làm chậm trễ tiến bộ tâm linh. Còn khổ hạnh sẽ làm giảm suy trí thức. Chính bản thân Đức Phật đã trải qua hai lối sống cực đoan này và kinh nghiệm rằng cả hai đều không dẫn đến mục tiêu cứu cánh. Rồi Ngài chỉ ra con đường mà chính Ngài đã khám khá, vô cùng thực tiễn và hữu ích. Đây là con đường duy nhất dẫn đến tình trạng trong sạch hoàn toàn và tuyệt đối giải thoát. Đó chính là con đường Trung đạo, được trải ra bằng Bát chánh đạoTrung đạo chính là Bát chánh đạo vậy! 
Thoát rừng tà kiến 

Trở lại bối cảnh đương thời Đức Phậtxã hội Ấn Độ có quá nhiều trường phái triết họctôn giáo với những chủ trương khác nhau, thậm chí chống trái nhau. 62 luận thuyết về vũ trụ và nhân sinh mà kinh Phạm động nêu ra đều căn cứ trên hai phần thời gian quá khứ tối sơ, gọi là bản kiếp bản kiến(pubbantakappikā, tức khởi nguyên của vũ trụ), và tương lai mạt kiếp, gọi là mạt kiếp mạt kiến(aparantakappikā, luận bàn về tương lai, đời sau). 


Về bản kiếp bản kiến, có trường phái chủ trương Thường trú luận (sassatavāda), cho rằng ngã và thế giới là thường hằngbất biến. Có trường phái chủ trương Bán thường trú luận (ekaccasassatavāda), cho rằng bản ngã và thế giới một phần thường trú và một phần không thường trú, chịu biến dịch, tức duy chỉ Brahman (Thượng đế) là thường hằng bất biếnngoài ra đều chịu biến dịch. Lại có trường phái chủ trương Hữu biên vô biên luận (antānantavāda), cho rằng tự ngã và thế giới là hữu biênvô biên, vừa hữu vừa vô biên và không phải hữu biên, không phải vô biên. Cũng có trường phái rất ngớ ngẩn, ấy là phái Nguỵ biện luận (anarāvikkhepavāda), hỏi một đường đáp một nẻo. Có trường phái chủ trương Vô nhân luận hay Ngẫu nhiên luận (adhicca-samuppannavāda), cho rằng thế giới này do ngẫu nhiên, không bởi nguyên nhân nào cả, xuất hiện từ hư vô

Về mạt kiếp mạt kiến, có trường phái chủ trương Hữu tưởng luận (saññīvāda), cho rằng đời sau có tưởng đồng thời có sắc (hữu hình), hoặc không sắc (vô hình), có biên (hữu hạn), hay không có biên (vô hạn), thuần lạc, hay thuần khổ, tưởng cục bộ hay tưởng vô lượng, v.v… Có trường phái chủ trương Vô tưởng luận (asaññīvāda), cho rằng đời sau có sắc, không có tưởng, v.v… Có trường phái chủ trương Phi tưởng phi phi tưởng luận (nevasaññīnāsaññīvāda), đời sau không phải có tưởng cũng không phải không có tưởng, v.v… Có trường phái chủ trương Đoạn diệt luận (ucchedavāda), cho rằng chúng sanhhoàn toàn đoạn diệtvô thường. Nhưng cũng có trường phái chủ trương Hiện tại Niết-bàn luận (diṭṭhadhammanibbānavāda), cho rằng năm dục là Niết-bàn trong hiện tại, hoặc Sơ thiềncho đến Tứ thiền, là Niết-bàn trong hiện tại

Tựu trung, Tạp A-hàm gọi chung các chủ trương trên là Nhị biên, hay như Long Thọ khái quát thành sinh, diệt, thường, đoạn, nhất, dị, lai, xuất, và phương pháp để thoát khỏi rừng kiến chấp ấy chính là tu tập 12 nhân duyên, hay bất sinhbất diệt, bất thường, bất đoạn, bất nhất, bất dị, bất lai, bất xuất. Kinh ghi: “‘Mệnh tức là thân’, hoặc ‘mệnh khác, thân khác’. Người ta thấy mệnh tức là thân, người tu phạm hạnh không nhận thức như vậy. Người ta thấy mệnh khác, thân khác, người tu phạm hạnh không chủ trương như vậy. (Người tu phạm hạnhthoát khỏi Nhị biênchân chính hướng trung đạo. Bậc hiền thánhxuất thế chánh kiến như thật, không điên đảo, nghĩa là do Vô minh, Hành sinh”4

Như vậy, Trung đạo chính là Duyên khởiDuyên khởi chính là không. Kinh ghi: “Ta sẽ vì các ông nói pháp, khoảng đầu, khoảng giữa và khoảng sau cùng đều thiện; thiện nghĩa, thiện vị, thuần nhất thanh tịnhphạm hạnh trong sạch; đó gọi là kinh Đại không pháp. Các Tỳ-kheo hãy lắng nghe, khéo tư duy. Ta sẽ vì các ông mà nói. Thế nào là kinh Đại không pháp? Cái này có nên cái kia có, cái này khởi nên cái kia khởi; tức là duyên Vô minh nên có Hành, duyên Hành nên có Thức,… cho đến tụ tập thuần một khối khổ lớn”5.

Lời kết 

Trung đạo là pháp môn tu tập, nhưng chúng ta cũng có thể hiểu đó là thái độ sống hay nghệ thuật sống đã đưa Thế Tôn đến chỗ giác ngộTrung đạo, theo Đức Thế Tôn định nghĩa, là con đường tám nhánh, tức Bát chánh đạo - chánh kiếnchánh tư duychánh ngữchánh nghiệpchánh mạngchánh tinh tấnchánh niệm và chánh định - nhưng theo ý nghĩa của đoạn pháp thoại mở đầu kinh Chuyển pháp luân thì trung đạo chính là phương pháp tu tập hay nghệ thuật sống đi ra ngoài hay vượt ra khỏi hai cực đoanhưởng thụ và khổ hạnhTrung đạo hoàn toàn không có ý nghĩa là con đường giữa, tức không phải là con đường đi giữa hai cực đoan hay nhị biênTrung đạo là con đường vượt ra ngoài đời sống hệ lụydương trần, vượt ra ngoài mọi sự kiềm tỏachi phối của ngũ dụctà kiến và vô minh


Theo ý nghĩa đó, điều quan trọng nhất của người xuất gia tu tập là phải giữ tâm an định, không bị lôi cuốn theo bất kỳ một xu hướng nào. Không những chỉ giữ tâm không bị vướng mắc vào hai cực đoan, mà ngay cả những cảm thọ lạc xuất phát từ thiền định cũng không vướng mắc. Do đó, Trung đạo được hiểu như là một phương pháp xả ly và giữ tâm bình thường. Đó chính là ý nghĩa mà chư Tổ thường dạy “Tâm bình thường là đạo”. 

Thật vậy, một thời, Đức Phật trú tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng Lâm, vườn Cấp Cô Độc

Bấy giờ, Tôn giả Sa-môn Nhị Thập Ức cũng trú tại nước Xá-vệ, trong rừng Ám Lâm; đầu đêm, giữa đêm và cuối đêm đều học tập không ngủ, tinh cần chánh trụ, tu tập đạo phẩm, nhưng tâm vẫn chưa giải thoátđược các lậu, nên có ý định xả giới, bỏ đạo hạnh, trở về đời sống thế tục chuyên việc bố thítu tập các phước nghiệp, vì nhà thầy rất giàu. 

Thế Tôn biết được tâm niệm ấy cho nên gọi thầy đến và nói pháp thoại “nghệ thuật lên dây đàn”, bởi Sa-môn Nhị Thập Ức khi sống tại gia rất giỏi đánh đàn. Theo đó, một người tu tập nếu quá sức tinh tấnsẽ khiến tâm rối loạn, nhưng chẳng tinh tấn thì tâm sẽ biếng lười. Vì vậy cần phải giữ cân bằng sự sống, biết sắp xếp thời gian thích hợp cho từng công việc, biết nắm bắt và buông bỏ những pháp cần và không cần cho đời sống phạm hạnh, như người nghệ sĩ đánh đàn biết lên dây vừa phải, không quá căng cũng không quá chùng. Đó là nghệ thuật sống vui an lạclối sống thong dongtrung đạo

Sa-môn Nhị Thập Ức sau khi lãnh thọ lời dạy của Thế Tôntrở về nơi xa vắng, tâm không buông lungnỗ lực tinh tấn tu tập, không bao lâu chứng quả A-la-hán, tìm được an lạc trong sáu trường hợpan lạcnơi vô dục, an lạc nơi viễn lyan lạc nơi vô tránhan lạc nơi ái tận, an lạc nơi thủ tận, và an lạc nơi tâm không di động. Thầy trình bày sở chứng của mình lên Đức Thế Tôn mà không khen mình khinh người, nên được Đức Thế Tôn khen ngợi, ấn chứng.

Rõ ràngtrung đạo là cách sống, nghệ thuật sống, sống với Duyên khởiBát chánh đạo, và nhờ cách sống này mà thoát ly sinh tử luân hồi vậy!

Thích Nguyên Hùng
Thư Viện Hoa Sen
____________________
(1) Trường A-hàm 21, kinh Phạm động. Pāli: D. 1. Brahmajālasutta. 
(2) Kinh dẫn thượng. 
(3) Kinh Chuyển pháp luân, Tạp A-hàm, số 397. S. 56. 11-12. Tathāgatena vuttā. 
(4) ĐKT/ĐCTT, T.02, n°.0099, p.84c. Nguyên văn: 『命即是身。』或言:『命異身異。』彼見命即是身者,梵行者無有;或言命異身異者,梵行者亦無有。離此二邊,正向中道。賢聖出世,如實不顛倒正見[1]所知,所謂緣無明行。 
(5) Kinh dẫn thượng.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1300)
Trong kinh điển tiểu thừa có một điểm khác biệt rất rõ nét so với kinh điển đại thừa, đó là bối cảnh thuyết pháp của Đức Phật.
(Xem: 1359)
Lịch sử tư tưởngtôn giáo của nhân loại có lẽ sẽ đánh dấu một bước ngoặt vào ngày đức Phật, theo truyền thuyết,
(Xem: 1588)
Trong Jataka, tức là những câu chuyện tiền thân của Đức Phật khi ngài còn là một Bồ tát, ngài có nói về hạnh Bồ tát trong...
(Xem: 1723)
Giáo lý Duyên khởi là nền tảng của triết học Phật giáo, do đó luôn là tâm điểm của những nghiên cứu về sự uyên nguyên của đạo Phật.
(Xem: 1683)
Đức Phật khẳng định: “Trong giáo pháp nào nếu khôngtám Thánh đạo thời ở đó không có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, thứ tư.
(Xem: 1082)
Duyên khởi có nghĩa là hết thảy hiện tượng đều do nhân duyên mà phát sinh, liên quan mật thiết với nhau, nương vào nhau mà tồn tại. Nói theo thuật ngữ Phật giáo thời “tất cả pháp là vô thường, vạn vật vô ngã, hết thảy đều không”. “Không” có nghĩa là “vô tự tính,” không có yếu tính quyết định.
(Xem: 1574)
Trong các kinh điển thuộc Hán tạng, ‘Phật thị hiện thuyết pháp’ có thể được xem như là một ‘thuật ngữ’ quen thuộc, phổ biến đối với quý Phật tử Đại Thừa.
(Xem: 1556)
Con người được sinh ra đời, sống trong cuộc đời nhưng càng lớn lên càng cảm thấy mình như vẫn thiếu thốn cái gì, như vẫn là một người thất lạc.
(Xem: 1737)
Có lần khi nói về tám thức tâm vương trong Duy thức học, một người hỏi rằng “con người lo sợ là do thức nào?”.
(Xem: 2014)
Giác ngộ cũng tức là giải thoát. Giải thoát cái gì ? Giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, điên đảo mộng tưởng, giống như người đang nằm mơ chợt tỉnh dậy,
(Xem: 1624)
Nhân quả là một định luật tất yếu trong sự hình thành nhân sinh quan và vũ trụ quan qua liên hệ duyên khởi của cuộc sống con người, mà qua đó nhân quả được coi như là một luật tắc không thể thiếu được khi hình thành một xã hội nhân bản đạo đức.
(Xem: 1436)
Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn, còn gọi là Bồ-đề Tát-đa,… Bồ-tát là từ gọi tắt của Bồ-đề Tát-đỏa, phiên âm từ Bodhi-sattva tiếng Phạn (sanskrit), còn gọi là Bồ-đề Tát-đa
(Xem: 1445)
Kính lễ Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn Nay con đem tâm phàm phu suy diễn thánh pháp Là nhờ những bậc tiền bối đã khai triển Pháp này Xin Ngài gia bị cho tâm phàm phu chuyển thành thánh trí
(Xem: 1628)
Con xin đê đầu kính lễ Phật – bậc Nhất thiết trí – đấng Mặt trời tròn thanh khiết. Những tia sáng lời dạy của Ngài đã phá tan bóng đêm trong bổn tâm của chư thiên, loài người và các đường ác.
(Xem: 1215)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau trong suốt nhiều thế kỷ liền đã nỗ lực lý giải khái niệm này bằng cách tận dụng sự hiểu biết hạn chế của mình.
(Xem: 1335)
Dưới đây là một vài dẫn khởi có tính cách thực tiễn đối với sự tu tập công án, được đề ra do các Thiền sư qua nhiều thời đại; từ đó, chúng ta có thể thấy rõ một công án sẽ làm được việc gì để khai triển ý thức Thiền và cũng thấy rõ sự tu tập công án đã bộc lộ cho khuynh hướng nào theo thời gian.
(Xem: 1345)
Có hai hình ảnh quen thuộc gợi lên ý tưởng biến dịch: như dòng sông và như ngọn lửa bốc cháy trên đỉnh núi. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một ý nghĩa tương phản: tác thành và hủy diệt.
(Xem: 1743)
Thời gian là một hiện tượng bí ẩn nhất và cũng là sít sao nhất với cuộc sống mỗi người.
(Xem: 1699)
Một thời Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikamba. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Rồi thôn trưởng Asibandhakaputta bạch Thế Tôn:
(Xem: 3109)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1886)
Khi sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này mỗi người đều mang trong mình một huyết thống mà tổ tiên bao đời đã hun đúc, giữ gìntruyền thừa qua nhiều thế hệ.
(Xem: 1426)
Vấn đề tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni phạm tội ba-la-di, thời Phật nghiêm khắc không cho sám hối đều có lý do. Với những lý do đó giống với xã hội bây giờ, cho nên trong chương này chúng tôi thảo luận chung cả hai giai đoạn thời Phật và cuộc sống hiện tại.
(Xem: 1261)
Hiện nay trong nguồn văn hiến hệ Hán truyền, chúng ta tìm thấy nhiều từ ngữ liên quan đến ý nghĩa sám hối như “hối quá 悔過”, “sám hối 懺悔”, “sám-ma 懺摩”, “phát lồ 發露”, thực chất tất cả đều xuất thân từ nghĩa gốc Phạn ngữ (Sanskrit) là từ: kṣama, kṣamayati.
(Xem: 1346)
Trong dòng chảy tâm thức của nhân loại từ xa xưa và cho đến nay luôn chia thành hai hướng, một hướng chảy theo dòng chảy Luân hồi (Saṃsāra), là số chúng sinh tâm tư cấu bẩn phiền não, ngụp lặn trong bùn lầy ố trược.
(Xem: 1465)
Những người con Phật chơn chính, thì lúc nào và ở đâu, họ cũng thực hành phápchánh pháp trở thành đời sống của chính họ. Họ được nuôi dưỡng ở trong chánh pháp và họ vui sống trong chánh pháp mỗi ngày.
(Xem: 1363)
Sự ra đời của Đức Phật nghiễm nhiên đã trở thành sự kiện quan trọng nhất trong suốt mấy ngàn năm tư tưởng Đông phương. Hiện tượng Lâm-tỳ-ni, chính vì thế, đã trở thành một hiện tượng đặc sắc đáng để mọi người nghiên cứu Phật học quan tâm.
(Xem: 1959)
Tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi đau khổ lớn. Đây là động cơ lớn thúc đẩy Thái tử ra đi tìm chân lý.
(Xem: 1741)
Như huyễn là một tính cách, một phương diện của tánh Không. Tánh Khôngvô tự tánh của mọi cái hiện hữu, và vì vô tự tánh nên như huyễn.
(Xem: 1943)
Theo quan niệm nhà Phật thì con người tự ràng buộc mình trong nỗi khổ đau do chính mình gây ra.
(Xem: 1880)
Trên lộ trình hướng về Phật đạo, tôi có duyên được “làm người đưa đò” tại ...
(Xem: 2445)
Bình đẳng tánh trí là gì? Là tánh bình đẳng của đại viên cảnh trí, nghĩa là tánh bình đẳng của tất cả mặt gương và của tất cả bóng hình in vào đó.
(Xem: 1831)
Theo truyền thống Phật giáo Nam tông, y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, Vũ kỳ An cư (Vassavāsa) bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 2197)
Vào thời Đức Phật, xã hội Ấn Độ rất nhiều học thuyết ra đời, mỗi học thuyết là một quan điểm chủ trương.
(Xem: 2308)
Trong bài này chúng ta sẽ tìm hiểu sơ lược về Đại viên cảnh trí, và trích toàn bộ đoạn nói về trí này trong Kinh Phật Địa, do Tam tạng Pháp sư Huyền Trang dịch ra tiếng Hán.
(Xem: 2370)
am Vô Lậu Học là môn học thù thắng gồm: Giới, Định và Tuệ trong đạo Phật.
(Xem: 1903)
Khi đạo Phật nói về tánh chất của khổ, có nhiều mức độ khổ khác nhau.
(Xem: 2026)
Dân gian thường nói, không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời. Rất khó giải thích về“ba họ” và “ba đời”.
(Xem: 2091)
Chúng ta đã thấy nguồn gốc của kinh tạng Phật giáo phát khởi từ ba kỳ kết tập kinh điển (saṅgīti).[1]
(Xem: 2025)
“Tất cả là vô thường” là một trong ba nguyên lý căn bản của Phật giáo (vô thường, vô ngã và niết-bàn tịch tịnh)
(Xem: 2656)
Không có kinh sách nào, Đức Phật dạy: Phải cầu nguyện, hay nương tựa vào một ai đó, ngay cả việc nương nhờ vào chính Ngài.
(Xem: 1993)
Bản tâm, tự tâm, bản tánh, tự tánh là những danh từ được Lục Tổ Huệ Năng sử dụng trong những lời thuyết pháp của ngài để...
(Xem: 1947)
Muốn thực hiện một đời sống đạo đức, mang lại hạnh phúc cho bản thân cũng như tha nhân thì trước hết con người ấy phải được giáo dục.
(Xem: 1999)
Như chúng ta đã biết, từ xưa lắm các triết gia và sử gia phương Tây từng đưa ra những định nghĩa về con người,
(Xem: 1964)
Sám hối là một thực hành tu tập quan trọng và phổ biến trong Phật giáo. Sám hối là...
(Xem: 2222)
Chúng ta hãy khởi đầu đọc kinh Kim-cang như một tác phẩm văn học. Giá trị văn học là sự biểu hiện thẩm mỹ của nội dung tư tưởng.
(Xem: 2373)
“Bà lão nghèo ngộ pháp Duyên khởi” là bản kinh chúng tôi giới thiệu kỳ này. Nguyên tác “Phật thuyết lão nữ nhơn kinh 佛說老女人經
(Xem: 2067)
“Kinh Căn Tu Tập / Indriya bhàvanà sutta” là bài kinh cuối cùng trong số 152 bài kinh đăng trong Trung Bộ Kinh do...
(Xem: 2186)
Theo Phật giáo, pháp có nghĩa là giáo pháp của Phật. Những lời dạy của Đức Phật chuyên chở chân lý.
(Xem: 1947)
Như Đức Phật đã dạy, một đặc điểm của Giáo Pháp thuần túy là những hiệu ứng phải được thể nghiệm tức khắc lúc này và nơi này, ngay trong cuộc đời này
(Xem: 1981)
Căn cứ thông tin từ tác phẩm Ni trưởng Huỳnh Liên - cuộc đờiđạo nghiệp do Ni giới hệ phái Phật giáo Khất sĩ ấn hành vào năm 2016 thì...
(Xem: 2475)
Từ khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chúng ta thấy rõ là bất cứ khi nào truyền thống dân tộc nép mình để đi trong dòng sinh mệnh của đạo Phật thì...
(Xem: 2385)
Dựa vào lịch sử Đức Phật, chúng ta được biết, Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhattha) khi chào đời, bước đi bảy bước, có bảy hoa sen đỡ chân
(Xem: 4140)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2545)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 3282)
Bốn mươi chín ngày sau khi đạt giác ngộ, Đức Phật bi mẫn và thiện xảo đã thuyết Tứ Diệu Đế cho năm vị đệ tử may mắn tại Varanasi.
(Xem: 2529)
Nếu có ai đó yêu cầu tóm tắt toàn bộ giáo lý Phật giáo trong một vài từ ngữ gọn gàng, không cần dài dòng văn tự, tôi sẽ không do dự trả lời rằng, đó là : Ngũ uẩn giai không.
(Xem: 2103)
Bằng sự tu tập lâu dài, vượt qua vách sắt thành đồng của địa ngục Thiết Vi hay sự co duỗi của bàn tay trước mắt mà ta vươn tới sự giải thoát thời đoạn, cuối cùngsự giải thoát hoàn toàn.
(Xem: 1841)
Đức Di Lặc tiếp tục giảng cho đồng tử Thiện Tài về Bồ đề tâm: “Tại sao vậy? Vì nhân nơi Bồ đề tâm mà xuất sanh tất cả Bồ tát hạnh.
(Xem: 3354)
Cộng đồng Tăng Già gồm tứ chúng Tăng NiPhật tử tại gia Nam Nữ với một hội đồng gồm ít nhất là bốn vị Tăng, hay một cộng đồng Tăng Ni sống hòa hiệp với nhau trong tinh thần lục hòa.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant